Ngất do thần kinh phế vị (Vasovagal) là gì?
Định nghĩa
Ngất do thần kinh phế vị (Vasovagal) là nguyên nhân phổ biến nhất của ngất. Ngất xảy ra khi cơ thể phản ứng quá mạnh, chẳng hạn như khi nhìn thấy máu hoặc đau khổ về tình cảm. Kết quả trong việc kích hoạt ngất vasovagal là sự mất ý thức ngắn gây ra bởi sự giảm đột ngột nhịp tim và huyết áp, giảm lưu lượng máu đến não.
Ngất do thần kinh phế vị thường không gây hại và không cần điều trị. Tuy nhiên, có thể làm tổn thương chính mình khi ngất. Ngoài ra, bác sĩ có thể đề nghị xét nghiệm để loại trừ nguyên nhân nghiêm trọng hơn của ngất vasovagal như rối loạn tim hay não.
Các triệu chứng
Trước khi ngất xỉu vì thần kinh phế vị, có thể gặp:
Da tái.
Hoa mắt.
Nhìn tối - tầm nhìn hạn chế hơn khi nhìn ở phía trước.
Buồn nôn.
Cảm giác nóng bừng.
Lanh toát mồ hôi.
Bởi vì ngất có thể là một dấu hiệu của một tình trạng nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như rối loạn tim hay não, có thể tham khảo ý kiến bác sĩ sau ngất, đặc biệt là nếu không có trước đây.
Nguyên nhân
Ngất do thần kinh phế vị xảy ra khi một phần của hệ thống thần kinh điều chỉnh nhịp tim và huyết áp trục trặc trong phản ứng kích hoạt, chẳng hạn như khi nhìn thấy máu. Nhịp tim chậm lại, và các mạch máu ở chân giãn rộng. Điều này cho phép máu ứ lại ở chân, làm giảm huyết áp. Giảm huyết áp và nhịp tim chậm lại nhanh chóng làm giảm lưu lượng máu đến não.
Mặc dù ngất do thần kinh phế vị có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nó được công nhận là một nguyên nhân quan trọng của ngất ở người cao tuổi.
Nguyên nhân ngất do thần kinh phế vị bao gồm:
Đứng trong thời gian dài.
Tiếp xúc với nhiệt.
Các cảnh của máu.
Khi lấy máu.
Sợ thương tích cơ thể.
Căng thẳng, chẳng hạn như đi tiêu khói.
Các xét nghiệm và chẩn đoán
Việc chẩn đoán ngất do thần kinh phế vị thường bao gồm việc loại trừ các nguyên nhân khác của ngất - đặc biệt là các vấn đề liên quan đến tim. Các xét nghiệm này có thể bao gồm:
Điện tâm đồ. Thử nghiệm này ghi lại các tín hiệu dòng điện do tim tạo ra. Có thể phát hiện nhịp tim bất thường và các vấn đề tim mạch khác có thể gây choáng ngất. Trong một số trường hợp, có thể cần phải đeo máy điện tâm đồ di động một ngày hoặc kéo dài một tháng.
Siêu âm tim. Thủ thuật này sử dụng hình ảnh siêu âm để xem tim và các vấn đề tìm, chẳng hạn như vấn đề về van, có thể gây choáng ngất.
Nghiệm pháp gắng sức. Điều này nghiên cứu nhịp tim trong khi tập luyện. Nó thường được thực hiện trong khi đi bộ hoặc chạy bộ trên máy chạy bộ.
Xét nghiệm máu. Bác sĩ có thể tìm các vấn đề, chẳng hạn như thiếu máu, có thể gây ra hoặc góp phần vào cơn choáng ngất.
Thử nghiệm bàn nghiêng: Nếu có vẻ như không có vấn đề về tim gây ra ngất, bác sĩ có thể đề nghị trải qua một thử nghiệm bàn nghiêng.
Nằm thẳng trên bàn.
Bàn thay đổi vị trí, nghiêng lên ở các góc khác nhau.
Một kỹ thuật viên giám sát nhịp tim và huyết áp để xem thay đổi do tư thế ảnh hưởng đến.
Phương pháp điều trị và thuốc
Trong hầu hết trường hợp ngất do thần kinh phế vị, điều trị là không cần thiết. Bác sĩ có thể giúp xác định lý do gây ra ngất và thảo luận về cách có thể tránh chúng. Tuy nhiên, nếu có trải nghiệm ngất do thần kinh phế vị thường xuyên đủ để ảnh hưởng chất lượng sống, bác sĩ có thể đề nghị một hoặc nhiều cố gắng trong những biện pháp sau đây.
Thuốc men
Các loại thuốc có thể giúp ngăn ngừa Ngất do thần kinh phế vị bao gồm:
Thuốc điều trị áp huyết Beta blockers. Như metoprolol (Lopressor) để điều trị tăng huyết áp. Cũng là những loại thuốc được sử dụng thường xuyên nhất để ngăn chặn ngất do thần kinh phế vị vì nó chặn một số tín hiệu có thể dẫn đến ngất.
Thuốc chống trầm cảm. Các chất ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin, như paroxetin (Paxil), fluoxetine (Prozac) và sertraline (Zoloft), cũng đã thành công trong việc ngăn ngừa ngất do thần kinh phế vị.
Constrictors. Thuốc điều trị huyết áp thấp hoặc hen suyễn đôi khi hữu ích trong việc ngăn ngừa ngất vasovagal.
Phương pháp trị liệu
Bác sĩ có thể giới thiệu các kỹ thuật cụ thể để giảm ứ máu ở chân. Cách này có thể tập đi bộ, mặc vớ đàn hồi hoặc đỡ cơ bắp chân khi đứng và tăng muối trong chế độ ăn uống nếu không có huyết áp cao. Tránh đứng kéo dài - đặc biệt là trong nơi nóng, những nơi đông đúc - và uống nhiều chất lỏng.
Phẫu thuật
Việc thêm một máy tạo nhịp tim, giúp điều hoà nhịp tim, có thể giúp một số người bị ngất do thần kinh phế vị.
Phòng chống
Nếu cảm thấy cảnh báo, nằm xuống và nâng hai chân. Điều này cho phép trọng lực giữ cho máu chảy đến não. Nếu không thể nằm xuống, ngồi xuống và đưa đầu giữa hai đầu gối cho đến khi cảm thấy tốt hơn.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ngất, một trong những nguyên nhân hay gặp nhất đó là do thần kinh phế vị. Việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào các yếu tố lâm sàng, ngoài ra các xét nghiệm cận lâm sàng giúp loại trừ nguyên nhân nguy hiểm khác.
1. Ngất phế vị là gì?
Ngất là tình trạng mất ý thức tạm thời do thiếu cung cấp máu tới não, ngất thường diễn biến nhanh, trong thời gian ngắn và phục hồi hoàn toàn.
Ngất do thần kinh phế vị xảy ra khi cơ thể phản ứng quá mạnh với các yếu tố xung quanh hay liên quan tới yếu tố cảm xúc. Ví dụ như sợ hãi một cái gì đó, đau buồn về tình cảm dẫn tới sự mất ý thức ngắn hạn gây ra bởi sự giảm đột ngột nhịp tim và huyết áp, từ đó làm giảm lưu lượng máu đến não.
Thông thường ngất có thể gặp ở mọi lứa tuổi, ngất do thần kinh phế vị thường không gây hại. Tuy nhiên, có thể khi ngất va đập sẽ gây ra những tổn thương.
Nguyên nhân gây ra ngất phế vị: Ngất do thần kinh phế vị xảy ra khi một phần của hệ thống thần kinh điều chỉnh nhịp tim và huyết áp bị ảnh hưởng khi gặp một phản ứng nào đó.
Một số tình huống có thể gặp tình trạng ngất do phản xạ thần kinh phế vị có thể gặp như:
Phải đứng trong thời gian dài.
Các cảnh của máu hoặc những cảnh tai nạn.
Tình huống gây ra cảm xúc quá mạnh.
Tiếp xúc thời gian dài với nơi có nhiệt độ cao.
Khi lấy máu, khi thay đổi tư thế.
Sợ hãi do chấn thương, sợ bị đau do chấn thương.
Căng thẳng quá mức.
Khi lấy máu có thể xuất hiện tình trạng ngất do phản xạ thần kinh phế vị
Khi lấy máu có thể xuất hiện tình trạng ngất do phản xạ thần kinh phế vị
2. Chẩn đoán ngất phế vị
Chẩn đoán ngất phế vị chủ yếu dựa vào các biểu hiện lâm sàng của người bệnh. Tuy nhiên cần kết hợp với các xét nghiệm cận lâm sàng nhằm loại trừ nguyên nhân khác.
2.1 Các dấu hiệu lâm sàng
Trước khi ngất có thể thấy các dấu hiệu như:
Da tái nhợt
Có thể đau đầu nhẹ.
Hoa mắt.
Đột ngột thấy tối sầm mắt, hạn chế tầm nhìn.
Buồn nôn.
Cảm giác nóng bừng hoặc lạnh toát mồ hôi.
Quan sát dấu hiệu khi ngất thấy:
Cơ thể hơi giật nhẹ hoặc có những cử động bất thường.
Bắt mạch yếu hơn và chậm hơn.
Đồng tử giãn nhẹ.
Thường thì người bệnh sẽ hồi phục sau khi ngất khoảng 1 phút. Nhưng không nên đứng dậy quá sớm để tránh bị ngất lại.
2.2 Các xét nghiệm và chẩn đoán
Ngất có thể do các nguyên nhân đặc biệt khác, nhất là ngất liên quan tới tim, vì thế việc chẩn đoán ngất do thần kinh phế vị thường kèm theo việc loại trừ các nguyên nhân khác của ngất; đặc biệt là loại trừ các vấn đề liên quan đến tim.
Một số loại xét nghiệm có giá trị cao trong chẩn đoán ngất do thần kinh phế vị
Một số loại xét nghiệm có giá trị cao trong chẩn đoán ngất do thần kinh phế vị
Các xét nghiệm để loại trừ bệnh có thể bao gồm:
Điện tâm đồ (ECG)): Có thể phát hiện được tình trạng nhịp tim bất thường và các vấn đề tim mạch khác có thể gây choáng ngất. Trong một số trường hợp khó phát hiện, có thể cần phải đeo máy điện tâm đồ di động một ngày hoặc kéo dài một tháng để theo dõi những bất thường.
Siêu âm tim: Là sử dụng sóng siêu âm để khảo sát bệnh lý của tim. Có thể thấy được các vấn đề của tim như bệnh lý về van, cơ tim, dị tật bẩm sinh... có thể gây choáng ngất
Nghiệm pháp gắng sức: Là thực việc nghiên cứu nhịp tim trong khi tập luyện. Người bệnh sẽ đeo máy theo dõi nhịp tim trong khi đi bộ hoặc chạy bộ trên máy chạy bộ.
Xét nghiệm máu: Công thức máu có thể giúp đánh giá bệnh lý của hệ tạo máu cơ bản, như thiếu máu, tình trạng này cũng có thể gây ra hoặc góp phần vào cơn choáng ngất.
Thử nghiệm bàn nghiêng: Nếu như không có vấn đề về tim gây ra ngất, người bệnh có thể cần phải trải qua một thử nghiệm bàn nghiêng. Người bệnh nằm thẳng trên bàn, sau đó bàn thay đổi vị trí, nghiêng lên ở các góc khác nhau và đồng thời theo dõi nhịp tim, huyết áp để xem những thay đổi do tư thế ảnh hưởng đến. Khi làm nghiệm pháp bàn nghiêng có thể đánh giá được người bệnh có tình trạng giả ngất do tâm lý hay ngất do thần kinh phế vị.
Trường hợp huyết áp và tần số tim thay đổi ít, người bệnh không ngất thì nghiệm pháp bàn nghiêng âm tính.
Huyết áp và tần số tim ít thay đổi, không có ngất, nhưng có vài triệu chứng như chóng mặt, đau đầu, khó thở... người bệnh lịm đi là giả ngất do tâm lý.
Ngất kèm theo tần số tim và huyết áp giảm nhanh, sau đó trở về bình thường nhanh khi nằm ngang được chẩn đoán ngất do phản xạ phế vị.
Tình trạng ngất xảy ra ngay sau vài phút trên nghiêng bàn, kèm huyết áp giảm nhanh khi ngất, trở về bình thường nhanh khi nằm ngang và thấy tần số tim ít thay đổi: Trường hợp này có thể ngất do tụt huyết áp tư thế.
Thử nghiệm bàn nghiêng dùng trong chẩn đoán ngất do thần kinh phế vị
Thử nghiệm bàn nghiêng dùng trong chẩn đoán ngất do thần kinh phế vị
3. Phòng ngừa ngất do phế vị
Khi thấy xuất hiện các triệu chứng của tiền ngất như hoa mắt, tối sầm mặt, chóng mặt nên nằm xuống và nâng cao cả hai chân. Việc này giúp duy trì, không gây giảm dòng máu tới não.
Nếu trường hợp không thể nằm, nên ngồi xuống và để đầu ở giữa hai đầu gối cho đến khi bạn cảm thấy đỡ các dấu hiệu tiền ngất.
Ngất do phế vị thường gặp và có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên tình trạng ngất này có thể do các nguyên nhân bệnh lý bất thường tại tim hoặc cơ quan khác gây ra. Vì thế điều quan trọng trong chẩn đoán ngất do phế vị là loại trừ được các nguyên nhân thực thể nguy hiểm gây ra tình trạng này.
Thực tế ngất có thể là những dấu hiệu ban đầu của nhiều bệnh lý khác nhau. Trong trường hợp nếu tình trạng ngất xảy ra thường xuyên, ảnh hưởng tới sức khỏe và cuộc sống, bạn nên đến gặp bác sĩ để tìm ra nguyên nhân và có hướng điều trị kịp thời.
Một số nguyên nhân gây ngất
Nguyên nhân
|
Những phát hiện gợi ý
|
Tiếp cận chẩn đoán*
|
Suy giảm cung lượng tim
|
Bệnh lý van tim: Hẹp van động mạch chủ, hẹp van hai lá, tứ chứng Fallot, hỏng hoặc huyết khối van nhân tạo
|
Bệnh nhân trẻ hoặc già
Ngất thường sau gắng sức; hồi phục nhanh
Tiếng thổi tại tim
|
Siêu âm tim
|
Bệnh cơ tim phì đại, bệnh cơ tim hạn chế, tràn dịch màng ngoài tim gây ép tim cấp, vỡ thành tự do của tim
|
Bệnh nhân trẻ hoặc già
Ngất thường sau gắng sức; hồi phục nhanh
Tiếng thổi ở tim (trong bệnh cơ tim phì đại)
Tiếng tim thứ 4 (trong bệnh cơ tim hạn chế)
|
Siêu âm tim
|
Khối u hoặc huyết khối tại tim
|
Ngất có thể sau thay đổi tư thế
Thường có tiếng thổi
Huyết khối mạch ngoại vi gây thuyên tắc mạch
|
Siêu âm tim
|
Tắc mạch phổi, thuyên tắc mạch do nước ối, hoặc tắc mạch do khí
|
Thường do tắc mạch lớn, kèm theo khó thở, nhịp tim nhanh, hoặc thở nhanh
Thường có các yếu tố nguy cơ gây tắc mạch phổi
|
Đôi khi D-dimer
Chụp mạch CT hoặc chụp xạ hình
|
Rối loạn nhịp tim
|
Loạn nhịp chậm (ví dụ do rối loạn chức năng nút xoang, block nhĩ thất cấp độ cao, thuốc†)
|
Ngất thường không có triệu chứng cảnh báo; tỉnh ngay khi được đánh thức
Có thể xảy ra ở bất kỳ tư thế nào
Nhịp chậm xuất hiện phổ biến hơn ở người cao tuổi
Bệnh nhân đang dùng thuốc, đặc biệt là thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc khác làm kéo dài khoảng QT.
Bệnh tim cấu trúc
|
Nếu điện tâm đồ không rõ ràng, cân nhắc sử dụng holter điện tâm đồ liên tục, hoặc máy ghi điện tâm đồ trong biến cố, hoặc có thể cấy thiết bị theo dõi điện tâm đồ liên tục.
Tiến hành thăm dò điện sinh lý nếu nghi ngờ có bệnh lý hoặc phát hiện biểu hiện bất thường
Xét nghiệm điện giải đồ nếu có căn nguyên lâm sàng rõ (sử dụng lợi tiểu, nôn, tiêu chảy)
|
Nhịp nhanh trên thất hoặc nhịp nhanh thất (do thiếu máu, suy tim, bệnh cơ tim, do thuốc†, rối loạn điện giải, bệnh cơ tim thất phải gây rối loạn nhịp, hội chứng QT kéo dài, hội chứng Brugada, hội chứng tiền kích thích)
|
Ngất thường không có triệu chứng cảnh báo; tỉnh ngay khi được đánh thức
Có thể xảy ra ở bất kỳ tư thế nào
Bệnh nhân đang dùng thuốc, đặc biệt là thuốc chống loạn nhịp tim hoặc các loại thuốc tim mạch khác
Bệnh tim cấu trúc
|
Nếu điện tâm đồ không rõ ràng, cân nhắc theo dõi qua Holter hoặc các thiết bị theo dõi khác, hoặc có thể cấy thiết bị theo dõi.
Tiến hành thăm dò điện sinh lý nếu nghi ngờ có bệnh lý hoặc phát hiện biểu hiện bất thường
Xét nghiệm điện giải đồ nếu có căn nguyên lâm sàng rõ (sử dụng lợi tiểu, nôn, tiêu chảy)
|
Suy giảm chức năng tâm thất
|
Nhồi máu cơ tim cấp, viêm cơ tim, rối loạn chức năng tâm thu hoặc tâm trương, bệnh cơ tim
|
Ngất hiếm khi xuất hiện trong nhồi máu cơ tim kèm theo loạn nhịp hoặc sốc (hầu hết bệnh nhân có biểu hiện này đều là người cao tuổi)
|
Xét nghiệm Troponin
ECG
Siêu âm tim
Đôi khi cần chụp MRI tim
|
Tràn dịch màng ngoài tim gây ép tim cấp hoặc viêm màng ngoài tim co thắt
|
Tĩnh mạch cổ nổi; mạch nghịch đảo > 10
|
Siêu âm tim
Đôi khi cần chụp CT
|
Cường phế vị (nguyên nhân thần kinh)
|
Tăng áp lực trong lồng ngực (ví dụ, tràn khí màng phổi áp lực, ho, rặn khi đi tiểu hoặc đại tiện, nghiệm pháp Valsalva)
|
Các triệu chứng cảnh báo (ví dụ: chóng mặt, buồn nôn, đổ mồ hôi); phục hồi thường nhanh chóng nhưng không ngay lập tức (5 đến 15 phút) mặc dù có thể kéo dài trong một số trường hợp hiếm gặp
Các yếu tố gây khởi phát thường rõ ràng
|
Đánh giá lâm sàng
|
Cảm xúc mạnh (đau đớn, sợ hãi, nhìn thấy máu)
|
Các triệu chứng cảnh báo (chóng mặt, buồn nôn, đổ mồ hôi); tỉnh nhanh nhưng không phải ngay lập tức (5 đến 15 phút hoặc lâu hơn, đôi khi lên đến hàng giờ)
Các yếu tố gây khởi phát thường rõ ràng
|
Đánh giá lâm sàng
|
Áp lực xoang cảnh
|
Các triệu chứng cảnh báo (chóng mặt, buồn nôn, đổ mồ hôi); tỉnh nhanh nhưng không phải ngay lập tức (5 đến 15 phút hoặc lâu hơn, đôi khi lên đến hàng giờ)
Các yếu tố gây khởi phát thường rõ ràng
|
Đánh giá lâm sàng
|
Nuốt (hiếm)
|
Các triệu chứng cảnh báo (chóng mặt, buồn nôn, đổ mồ hôi); tỉnh nhanh nhưng không phải ngay lập tức (5 đến 15 phút hoặc lâu hơn, đôi khi lên đến hàng giờ)
Các yếu tố gây khởi phát thường rõ ràng
|
Đánh giá lâm sàng
|
Sốc phản vệ
|
Dùng thuốc, côn trùng cắn, tiền sử dị ứng, các dấu hiệu phản vệ khác (ví dụ: phát ban, thở khò khè, tụt huyết áp)
|
Test dị ứng
|
Hạ huyết áp tư thế
|
Thuốc†
|
Các triệu chứng tiến triển chỉ trong vài phút sau khi đứng dậy
Huyết áp (BP) tụt khi đứng dậy trong khi khám
|
Đánh giá lâm sàng
Đôi khi cần tiến hành nghiệm pháp bàn nghiêng
|
Rối loạn thần kinh thực vật
|
Các triệu chứng tiến triển chỉ trong vài phút sau khi đứng dậy
Huyết áp tụt khi đứng dậy
|
Đánh giá lâm sàng
Đôi khi cần tiến hành nghiệm pháp bàn nghiêng
|
Bất động do nằm lâu
|
Các triệu chứng tiến triển chỉ trong vài phút sau khi đứng dậy
Huyết áp tụt khi đứng dậy
|
Đánh giá lâm sàng
Đôi khi cần tiến hành nghiệm pháp bàn nghiêng
|
Thiếu máu
|
Mệt mỏi kéo dài, đôi khi đi ngoài phân đen, mất máu nhiều qua kinh nguyệt
|
Công thức máu hoặc hematocrit
|
Rối loạn nội tiết (ví dụ: suy tuyến thượng thận, suy giáp)
|
Các triệu chứng tiến triển chỉ trong vài phút sau khi đứng dậy
Các triệu chứng thường liên quan của bệnh nội tiết nền
|
Bảng xét nghiệm chuyển hóa cơ bản
Đo cortisol buổi sáng
Hormone kích thích tuyến giáp (TSH)
|
Mạch máu não
|
Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua ở động mạch nền hoặc đột quỵ
|
Đôi khi liệt thần kinh sọ và thất điều
|
CT hoặc MRI
|
Đau nửa đầu
|
Các triệu chứng aura thị giác, sợ ánh sáng; triệu chứng xảy ra một bên
Thiếu các triệu chứng một bên trong trường hợp đau nửa đầu do động mạch nền
|
Đánh giá lâm sàng
|
Khác
|
Đứng lâu
|
Tiền sử thường rõ ràng, không có triệu chứng khác
|
Đánh giá lâm sàng
|
Mang thai
|
Nữ giới khỏe mạnh trong độ tuổi sinh đẻ; không có các triệu chứng khác
Thường mang thai giai đoạn sớm hoặc chưa nhận ra mình mang thai
|
Test kiểm tra thai qua nước tiểu
|
Tăng thông khí
|
Thường có cảm giác ngứa quanh miệng hoặc ở ngón tay ngón tay trước khi ngất
Thường xuất hiện khi đang xúc động mạnh
|
Đánh giá lâm sàng
|
Hạ đường huyết
|
Thay đổi tri giác cho đến khi được điều trị, hiếm khi khởi phát đột ngột, vã mồ hôi,
Thường có tiền sử đái tháo đường hoặc u tụy nội tiết insulin
|
Đường máu mao mạch
Đáp ứng với truyền glucose
|
Bệnh lý tâm thần
|
Không có ngất thực sự (bệnh nhân vẫn có thể đáp ứng một phần, hoặc không đáp ứng nhất quán trong khi ngất)
Khám thường quy
Thường có tiền sử bệnh lý tâm thần
|
Đánh giá lâm sàng
|
* Tất cả các bệnh nhân đều cần làm điện tâm đồ và đo độ bão hòa oxy trong máu.
|
† Xem bảng Một số nguyên nhân gây ngất do thuốc.
|
Ngất
TheoAndrea D. Thompson, MD, PhD, University of Michigan;
Michael J. Shea, MD, Michigan Medicine at the University of Michigan
Đã xem xét/Đã chỉnh sửa Thg 7 2022
Sinh lý bệnh
|
Căn nguyên
|
Đánh giá
|
Điều trị
|
Các điểm thiết yếu ở người cao tuổi: Ngất
|
Những điểm chính
|
Thông tin thêm
Nguồn chủ đề
Âm thanh (0)
Bảng (2)
Công cụ tính toán lâm sàng (0)
Hình ảnh (0)
Mô hình 3D (0)
Video (0)
Ngất là hiện tượng mất ý thức ngắn và đột, kèm theo mất trương lực tư thế và phục hồi ngay sau đó. Bệnh nhân có biểu hiện không cử động được, đầu chi lạnh, mạch yếu và thở nông. Đôi khi xảy ra hiện tượng giật cơ ngắn, ngoài ý muốn, giống cơn động kinh.
Tiền ngất là hiện tượng choáng, mệt thỉu, bệnh nhân có cảm giác sắp ngất nhưng không mất ý thức. Nó thường được phân loại và mô tả cùng triệu chứng ngất, bởi nguyên nhân của cả hai là như nhau.
Co giật có thể gây mất ý thức đột ngột nhưng không được coi là ngất. Tuy nhiên, cần cân nhắc chẩn đoán động kinh ở những bệnh nhân có biểu hiện ngất, vì tiền sử và bệnh sử có thể không cung cấp những thông tin rõ ràng, hoặc không khai thác được, đồng thời một số loại động kinh không gây co giật hoặc co cứng. Thêm vào đó, cơn động kinh ngắn (< 5 giây) đôi khi có thể gây ngất.
Chẩn đoán dựa trên khai thác tiền sử và bệnh sử, những mô tả của người chứng kiến cơn động kinh, hoặc khám lâm sàng lúc xảy ra cơn động kinh.
Sinh lý bệnh của ngất
Trong hầu hết các trường hợp, ngất xảy ra do nguyên nhân suy giảm lưu lượng máu não. Trong một số trường hợp, tuy lưu lượng máu não đủ nhưng lại thiếu các chất nuôi dưỡng quan trọng (như oxy, glucose, hoặc cả hai).
Suy giảm lưu lượng máu não
Hầu hết các trường hợp suy giảm lưu lượng máu não đều do giảm cung lượng tim.
Giảm cung lượng tim có thể do
Bệnh lý tại tim gây tắc nghẽn đường tống máu
Rối loạn chức năng tâm thu của tim
Rối loạn chức năng tâm trương của tim
Loạn nhịp tim (nhịp nhanh hoặc nhịp chậm)
Những bệnh lý gây giảm hồi lưu tĩnh mạch
Hoạt động thể lực, sử dụng thuốc giãn mạch và giảm lưu lượng tuần hoàn có thể gây ngất ở những bệnh nhân đã có tắc nghẽn đường tống máu từ trước đó (đặc biệt ở bệnh nhân có hẹp động mạch chủ và bệnh cơ tim phì đại).
Loạn nhịp có thể gây ngất khi nhịp tim quá nhanh không đủ thời gian làm đầy tâm thất (ví dụ, > 150-180 nhịp/phút) hoặc quá chậm gây suy giảm cung lượng tim (ví dụ, < 30-35 nhịp/phút).
Giảm hồi lưu tĩnh mạch có thể do xuất huyết, tăng áp lực lồng ngực, tăng trương lực phó giam cảm (đồng thời làm giảm nhịp tim), hoặc mất trương lực giao cảm (do thuốc, tăng áp lực xoang cảnh, rối loạn chức năng thần kinh thực vật). Ngất do các cơ chế này (trừ cơ chế xuất huyết) thường được gọi là ngất do phản xạ cường phế vị, hoặc ngất do cơ chế thần kinh tim.
Hạ huyết áp tư thế là một trong những nguyên nhân thường gặp gây ngất, do rối loạn các cơ chế phục hồi mức suy giảm hồi lưu tĩnh mạch khi đứng (nhịp nhanh xoang, co mạch hoặc cả hai).
Bệnh mạch máu não (ví dụ, đột quỵ, cơn thiếu máu não thoáng qua) hiếm khi gây ngất bởi trong hầu hết các trường hợp, chúng không gây tổn thương các cấu trúc trung tâm, phần chịu trách nhiệm chính gây mất ý thức. Tuy nhiên, thiếu máu cục bộ động mạch thân nền, do cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua, đột quỵ hoặc đau nửa đầu, có thể gây ngất. Trong một số ít các trường hợp, viêm hoặc thoái hóa cột sống cổ có thể gây hội chứng động mạch sống nền, làm giảm tưới máu, từ đó có thể gây ngất khi đầu thay đổi ở một số tư thế nhất định.
Thiếu chất nuôi dưỡng não
Glucose và oxy là những chất dinh dưỡng không thể thiếu với hệ thần kinh trung ương (CNS). Ngay cả khi lưu lượng máu não bình thường, sự thiếu hụt một trong hai thành phần này sẽ gây mất ý thức. Trên thực tế lâm sàng, hạ đường huyết là nguyên nhân thường gặp hơn, bởi hạ oxy máu hiếm khi xảy ra đột ngột và đủ nhanh để gây mất ý thức. Mất ý thức do hạ đường huyết ít khi đột ngột như trong trường hợp ngất hoặc động kinh, mà thường có tiền triệu xảy ra trước đó (trừ trường hợp bệnh nhân dùng thuốc chẹn beta); tuy nhiên, bác sĩ lâm sàng có thể không khai thác được cụ thể lúc khởi phát cơn hạ đường huyết, trừ khi có người chứng kiến đi cùng.
Căn nguyên của Ngất
Nguyên nhân thường được phân loại theo cơ chế (xem bảng Một số nguyên nhân gây ngất).
Các nguyên nhân phổ biến nhất là
Cường phế vị (nguyên nhân thần kinh)
Vô căn
Nhiều trường hợp ngất không có chẩn đoán xác định nhưng thường là lành tính. Một số ít trường hợp có bệnh lý căn nguyên nguy hiểm, thường là các bệnh lý tim mạch.
Bảng
Một số nguyên nhân gây ngất
Bảng
Một số nguyên nhân gây ngất do thuốc
Đánh giá Ngất
Đánh giá nên được thực hiện sau biến cố càng sớm càng tốt, bởi càng đánh giá xa biến cố, càng gặp nhiều khó khăn trong chẩn đoán. Thông tin từ người chứng kiến là khá hữu ích và nên thu thập càng sớm càng tốt.
Lịch sử
Trong phần tiền sử các bệnh hiện mắc, nên xác định các yếu tố gây ngất, bao gồm các sinh hoạt hàng ngày bệnh nhân (như tập luyện, tranh cãi, bối cảnh gây cảm xúc), tư thế (nằm hoặc đứng, nếu đứng thì đứng trong bao lâu). Các triệu chứng quan trọng liên quan ngay trước hoặc sau sự kiện bao gồm có cảm giác sắp mất ý thức, buồn nôn, đổ mồ hôi, nhìn mờ hoặc nhìn đường hầm, ngứa ran ở môi hoặc đầu ngón tay, đau ngực hoặc đánh trống ngực hay không. Cần xác định rõ thời gian tỉnh lại. Cần tìm người chứng kiến cảnh bệnh nhân ngất và khai thác kỹ, nhằm mô tả rõ tình trạng co giật và thời gian co giật nếu có.
Cần hỏi rõ về các vùng đau hoặc chấn thương, các đợt chóng mặt hoặc tiền ngất, các đợt đánh trống ngực hoặc đau ngực khi gắng sức. Bệnh nhân cần được hỏi về các triệu chứng gợi ý bệnh lý căn nguyên, bao gồm đi ngoài phân đen, mất máu nhiều qua kinh nguyệt (thiếu máu); nôn nhiều, tiêu chảy hoặc tiểu nhiều (mất nước hoặc rối loạn điện giải); các yếu tố nguy cơ tắc mạch phổi (tiền sử phẫu thuật gần đây hoặc bất động kéo dài, ung thư, tiền sử huyết khối hoặc trạng thái tăng đông).
Bệnh sử cần hỏi về các biến cố ngất trước đó, bệnh tim mạch đã biết và các tình trạng rối loạn co giật đã biết. Cần xác định rõ các loại thuốc đang dùng (đặc biệt là thuốc điều trị tăng huyết áp, thuốc lợi niệu, thuốc giãn mạch và chống loạn nhịp tim - xem bảng Một số nguyên nhân ngất do thuốc). Tiền sử gia đình nên khai thác bệnh lý tim mạch xuất hiện khi còn trẻ, hoặc tử vong khi còn trẻ ở bất cứ thành viên nào trong gia đình.
Khám thực thể
Dấu hiệu sinh tồn đóng vai trò rất quan trọng. Nhịp tim và huyết áp được đo khi bệnh nhân nằm ngửa và sau 3 phút đứng. Bắt mạch tìm kiếm dấu hiệu bất thường.
Khám toàn thân nhằm phát hiện các dấu hiệu bất thường về tri giác, bao gồm lẫn lộn, tiếp xúc chậm, cùng các dấu hiệu chấn thương (bầm tím, sưng tấy, đau, vết tự cắn lưỡi).
Nghe tim phát hiện các tiếng thổi, nếu có, cần lưu ý tới sự thay đổi của tiếng thổi đó khi làm nghiệm pháp Valsava, khi đứng hoặc khi ngồi xổm.
Đánh giá cẩn thận sóng tĩnh mạch cảnh (xem hình Sóng tĩnh mạch cảnh bình thường) trong khi sờ động mạch cảnh hoặc nghe tim có thể cho phép chẩn đoán rối loạn nhịp tim nếu không có ECG. Ví dụ, sóng "a" đại bác xảy ra khi tâm nhĩ co lại khi van ba lá đóng và biểu thị tình trạng phân ly tâm nhĩ-thất.
Khám bụng kiểm tra các điểm đau, thăm trực tràng kiểm tra dấu hiệu xuất huyết tiêu hóa.
Khám thần kinh được thực hiện để xác định bất kỳ bất thường khu trú nào, gợi ý nguyên nhân hệ thần kinh trung ương (ví dụ, rối loạn co giật).
Các dấu hiệu cảnh báo
Các biểu hiện sau cho thấy bệnh lý căn nguyên nguy hiểm:
Ngất khi tập luyện
Ngất nhiều lần trong khoảng thời gian ngắn
Tiếng thổi hoặc các triệu chứng gợi ý bệnh tim cấu trúc (đau ngực)
Tuổi cao
Chấn thương nặng khi ngất.
Tiền sử gia đình có tử vong chưa rõ nguyên nhân, ngất khi gắng sức hoặc co giật/ngất tái diễn chưa rõ nguyên nhân.
Giải thích các dấu hiệu
Mặc dù nguyên nhân thường lành tính, nhưng cần nhận diện các nguyên nhân gây đe dọa tính mạng (như nhịp nhanh, block tim) vì chúng có nguy cơ gây tử vong. Các triệu chứng lâm sàng (xem bảng Các nguyên nhân Ngất) giúp gợi ý tìm nguyên nhân trong 40 đến 50% các trường hợp. Dưới đây là một số khái quát hữu ích.
Ngất thường do nguyên nhân lành tính.
Ngất khởi phát sau căng thẳng về thể chất hoặc tinh thần, xuất hiện ngay sau thay đổi tư thế và sau các triệu chứng cảnh báo qua trung gian phó giao cảm (như buồn nôn, yếu, ngáp, lo âu, nhìn mờ, toát mồ hôi). Các biểu hiện trên thường gợi ý ngất do cường phế vị.
Ngất thường xảy ra sau khi đứng dậy (đặc biệt ở bệnh nhân cao tuổi, sau nằm lâu, hoặc bệnh nhân đang dùng một số nhóm thuốc nhất định) gợi ý hạ huyết áp tư thế đứng.
Ngất xảy ra sau khi đứng lâu không di chuyển thường do ứ máu tại tĩnh mạch.
Các nguyên nhân nguy hiểm được gợi ý bởi các dấu hiệu cảnh báo.
Ngất khi gắng sức gợi ý suy giảm cung lượng tim hoặc rối loạn nhịp do gắng sức. Những bệnh nhân này đôi khi cũng có biểu hiện đau ngực, đánh trống ngực, hoặc cả hai. Khám phát hiện các triệu chứng tại tim giúp xác định nguyên nhân. Tiếng thổi cường độ mạnh, đạt đỉnh muộn và lan lên động mạch cảnh gợi ý chẩn đoán hẹp van động mạch chủ; tiếng thổi tâm thu tăng lên khi làm nghiệm pháp Valsalva và biến mất khi ngồi xổm gợi ý chẩn đoán bệnh cơ tim phì đại.
Ngất xuất hiện và kết thúc đột ngột, mang tính tự phát, thường do nguyên nhân tim mạch và hay gặp nhất trong các bệnh lý rối loạn nhịp.
Ngất khi thay đổi tư thế từ đứng sang nằm cũng gợi ý chẩn đoán loạn nhịp vì các cơ chế gây ngất do cường phế vị và hạ áp tư thế không gây ngất ở tư thế nằm.
Ngất kèm theo chấn thương trong cơn làm tăng khả năng gây ra co giật hoặc do tim, và do đó biến cố này được quan tâm nhiều hơn. Các dấu hiệu cảnh báo và mất ý thức chậm hơn đi kèm với ngất mạch máu lành tính phần nào làm giảm khả năng chấn thương.
Mất ý thức trong cơn co giật hoặc lú lẫn sau cơn đôi khi có thể bị nhầm lẫn với ngất, nhưng giật cơ hoặc co giật kéo dài hơn vài giây, tiểu không tự chủ, chảy nước dãi hoặc cắn lưỡi, nếu có, thường là dấu hiệu của một cơn co giật.
Xét nghiệm
Xét nghiệm thường được thực hiện.
ECG
Đo độ bão hòa oxy máu theo xung mạch
Đôi khi sử dụng siêu âm tim
Đôi khi cần tiến hành nghiệm pháp bàn nghiêng
Chỉ tiến hành xét nghiệm máu khi có chỉ định trên lâm sàng
Chẩn đoán hình ảnh hệ thống thần kinh trung ương hiếm khi được chỉ định
Nhìn chung, nếu ngất gây chấn thương hoặc tái phát (đặc biệt là trong một khoảng thời gian ngắn), cần phải đánh giá sâu hơn. Chẩn đoán hình ảnh tim và não không được thực hiện trừ khi có dấu hiệu lâm sàng (nghi ngờ nguyên nhân tim mạch hoặc tổn thương thần kinh).
Bệnh nhân nghi ngờ loạn nhịp tim, viêm cơ tim, hoặc thiếu máu cục bộ nên được nhập viện để đánh giá kỹ hơn. Những bệnh nhân khác có thể chỉ cần đánh giá ngoại trú.
Nên làm điện tâm đồ ở tất cả các bệnh nhân. Điện tâm đồ có thể cho biết rối loạn nhịp tim, bất thường dẫn truyền, phì đại tâm thất, kích thích trước, kéo dài QT, trục trặc máy tạo nhịp tim, thiếu máu cục bộ cơ tim hoặc nhồi máu cơ tim. Nếu nghi ngờ chẩn đoán sau khi đánh giá cơ bản này, đo các chất chỉ điểm tim và thu thập các điện tâm đồ tuần tự để loại trừ NMCT ở bệnh nhân cao tuổi cộng với theo dõi điện tâm đồ trong ít nhất 24 giờ là điều cần thiết. Nếu phát hiện rối loạn nhịp, thời điểm rối loạn nhịp phải có sự liên quan với thời điểm thay đổi tri giác nhằm chẩn đoán chắc chắn nguyên nhân gây ngất liên quan tới rối loạn nhịp, tuy nhiên phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện ngất trong quá trình theo dõi. Mặt khác, trong quá trình theo dõi nếu vẫn có biểu hiện của các triệu chứng trong khi không có rối loạn nhịp nào cũng giúp góp phần loại trừ nguyên nhân tim mạch. Máy ghi biến cố (có thể ghi lại nhịp tim trong thời gian dài hơn) có thể hữu ích nếu các triệu chứng cảnh báo xảy ra trước ngất. Điện tâm đồ tín hiệu trung bình có thể giúp xác định các rối loạn nhịp có xu hướng tiến triển thành rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân thiếu máu cơ tim hoặc bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim. Nếu các đợt ngất không thường xuyên (ví dụ: < 1 lần/tháng), có thể sử dụng máy ghi vòng lặp có thể cấy ghép để ghi lâu hơn. Thiết bị này liên tục ghi lại nhịp điệu và có thể được thẩm vấn bởi một máy bên ngoài cho phép in nhịp tim.
Đo độ bão hòa oxy qua da nên được tiến hành trong hoặc ngay sau khi ngất để xác định tình trạng hạ oxy máu (gợi ý chẩn đoán tắc mạch phổi). Nếu có giảm oxy máu, chụp CT mạch được chỉ định để loại trừ thuyên tắc phổi.
Xét nghiệm được thực hiện dựa trên chẩn đoán lâm sàng; không nên sử dụng các bộ xét nghiệm mặc định sẵn. Tuy nhiên, nên tiến hành thử thai cho tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Nếu nghi ngờ thiếu máu, tiến hành xét nghiệm Hematocrit. Chỉ làm điện giải đồ nếu có bất thường trên lâm sàng (có triệu chứng hoặc đang sử dụng thuốc gây rối loạn điện giải). Đo troponin huyết thanh nếu nghi ngờ nhồi máu cơ tim cấp.
Siêu âm tim được chỉ định cho những bệnh nhân ngất không rõ nguyên nhân trên lâm sàng, ngất do gắng sức, tiếng thổi ở tim hoặc nghi ngờ có khối u trong tim (ví dụ, những người có ngất do tư thế).
Nghiệm pháp bàn nghiêng có thể được thực hiện nếu bệnh sử và khám thực thể cho thấy thuốc ức chế vận mạch hoặc ngất do phản xạ khác. Nghiệm pháp bàn nghiêng cũng được sử dụng để đánh giá ngất sau gắng sức, nếu siêu âm tim hoặc các nghiệm pháp gắng sức không cho thấy bất thường.
Nghiệm pháp gắng sức (tập thể dục hoặc dùng thuốc) được thực hiện khi nghi ngờ thiếu máu cục bộ cơ tim gián đoạn. Nó thường được thực hiện ở bệnh nhân với các triệu chứng liên quan đến quá trình gắng sức. Các nghiệm pháp gắng sức thường ít giá trị, trừ trường hợp ngất liên quan tới các hoạt động thể lực.
Kiểm tra điện sinh lý xâm lấn được xem xét nếu kiểm tra không xâm lấn không xác định được loạn nhịp tim ở bệnh nhân mắc bất kỳ bệnh nào sau đây:
Ngất gần đây không giải thích được
Những dấu hiệu cảnh báo không giải thích được
Bệnh cơ tim do thiếu máu cục bộ, bệnh cơ tim không do thiếu máu cục bộ và bệnh bẩm sinh ở người trưởng thành hoặc ngất không rõ nguyên nhân mà không đáp ứng các tiêu chuẩn về ICD được sử dụng để phòng ngừa ban đầu
Một đáp ứng tiêu cực xác định một phân nhóm có nguy cơ thấp với tỷ lệ thuyên giảm cao. Việc tiến hành thăm dò điện sinh lý vẫn đang gây tranh cãi.
Cần tiến hành làm điện não đồ nếu nghi ngờ động kinh.
Chụp CT và MRI sọ não chỉ khi có các triệu chứng cơ năng và thực thể gợi ý bệnh lý thần kinh trung ương khu trú.
Điều trị Ngất
Nếu phát hiện bệnh nhân trong cơn ngất, cần kiểm tra mạch ngay lập tức. Nếu bệnh nhân vô mạch, bắt đầu hồi sức tim phổi. Nếu bắt được mạch và có tình trạng nhịp chậm mức độ nặng, sử dụng atropin ngay lập tức và đặt máy tạo nhịp ngoài cơ thể. Isoproterenol có thể được sử dụng để duy trì nhịp tim trong khi chờ đợi cấy máy tạo nhịp tạm thời.
Nhịp tim nhanh được điều trị; sốc đồng bộ dòng điện một chiều nhanh hơn và an toàn hơn dùng thuốc cho bệnh nhân không ổn định. Điều trị tình trạng suy giảm hồi lưu tĩnh mạch bằng cách giữ bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa, nâng chân và truyền dịch muối đẳng trương tĩnh mạch. Dẫn lưu dịch màng ngoài tim trong trường hợp chèn ép tim. Tràn khí màng phổi dưới áp lực cần được điều trị bằng cách mở màng phổi và dẫn lưu khí liên tục. Điều trị tình trạng phản vệ bằng epinephrine đường tĩnh mạch.
Nếu đã loại trừ các nguyên nhân gây đe dọa tính mạng, việc đặt bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa và nâng cao hai chân thường sẽ giúp bệnh nhân tỉnh lại. Nếu bệnh nhân đứng dậy quá đột ngột, tình trạng ngất có thể tái diễn, việc giữ bệnh nhân hoặc vận chuyển bệnh nhân ở tư thế đứng có thể kéo dài tình trạng giảm tưới máu não và làm chậm quá trình phục hồi.
Điều trị đặc biệt phụ thuộc vào bệnh lý căn nguyên cũng như cơ chế sinh lý bệnh của nó. Việc lái xe và sử dụng máy móc nên bị cấm cho đến khi nguyên nhân được xác định và điều trị.
Các điểm thiết yếu ở người cao tuổi: Ngất
Nguyên nhân phổ biến nhất gây ngất ở người cao tuổi là hạ huyết áp tư thế do sự kết hợp của nhiều yếu tố. Các yếu tố đó bao gồm: xơ vữa động mạch, giảm hồi lưu tĩnh mạch do sự suy giảm chức năng của bơm cơ xương do ít vận động, thoái hoá nút xoang nhĩ và hệ thống dẫn truyền do bệnh lý cấu trúc tim.
Ở người cao tuổi, ngất thường do sự kết hợp nhiều nguyên nhân. Ví dụ, sự kết hợp của việc uống một số loại thuốc tim và huyết áp và đứng trong nhà thờ nóng trong thời gian dài hoặc cảm xúc có thể dẫn đến ngất mặc dù không có yếu tố đơn lẻ nào có thể gây ngất.
Những điểm chính
Ngất là kết quả của rối loạn chức năng hệ thần kinh trung ương toàn thể, thường là do lưu lượng máu não không đủ.
Trong hầu hết các trường hợp, ngất thường có nguyên nhân lành tính.
Một số nguyên nhân khác, ít phổ biến hơn như rối loạn nhịp, suy giảm cung lượng tim là những nguyên nhân nguy hiểm có thể gây đe dọa tính mạng.
Ngất do cường phế vị thường có yếu tố khởi phát rõ, có triệu chứng cảnh báo và thường chỉ kéo dài vài phút trước khi bệnh nhân hồi tỉnh.
Ngất do rối loạn nhịp thường xảy ra đột ngột và nhanh chóng phục hồi.
Nếu căn nguyên lành tính không rõ ràng, nên cấm lái xe và sử dụng máy móc cho đến khi nguyên nhân được xác định và điều trị – biểu hiện tiếp theo của một nguyên nhân tim không được phát hiện có thể gây tử vong.
Điều trị hướng trực tiếp vào bệnh lý nền.
Sốc phản vệ và sốc vagal (hay ngất do phản xạ thần kinh phế vị) đều có thể gây ra ngất xỉu, nhưng chúng có những nguyên nhân và triệu chứng khác nhau. Việc phân biệt hai loại sốc này rất quan trọng để có biện pháp xử trí kịp thời.
Dưới đây là một số điểm khác biệt chính giúp bạn phân biệt sốc phản vệ và sốc vagal:
Sốc phản vệ:
- Nguyên nhân: Do phản ứng dị ứng nghiêm trọng với các tác nhân như thức ăn, thuốc, côn trùng cắn, vv.
- Khởi phát: Xảy ra rất nhanh, thường trong vòng vài phút sau khi tiếp xúc với tác nhân gây dị ứng.
- Triệu chứng:
- Hô hấp: Khó thở, thở khò khè, nghẹt thở.
- Tuần hoàn: Huyết áp tụt nhanh, mạch yếu, da xanh tái, lạnh.
- Da: Nổi mề đay, ngứa, sưng phù mặt, môi, lưỡi.
- Tiêu hóa: Buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy.
- Thần kinh: Bồn chồn, lo lắng, cảm giác sắp chết.
Sốc vagal:
- Nguyên nhân: Do kích thích dây thần kinh phế vị, thường bởi các yếu tố như: đau, sợ hãi, căng thẳng, đứng lâu, nhìn thấy máu, vv.
- Khởi phát: Thường diễn biến từ từ với các triệu chứng báo trước.
- Triệu chứng:
- Tiền triệu: Chóng mặt, hoa mắt, buồn nôn, vã mồ hôi, da xanh tái.
- Hô hấp: Thở chậm.
- Tuần hoàn: Huyết áp tụt, mạch chậm.
- Thần kinh: Ngất xỉu, mất ý thức trong thời gian ngắn.
Lưu ý quan trọng:
- Sốc phản vệ là một tình trạng cấp cứu y tế, cần được điều trị ngay lập tức bằng epinephrine (adrenalin).
- Nếu bạn nghi ngờ mình hoặc người khác đang bị sốc phản vệ, hãy gọi cấp cứu ngay lập tức.
Bảng so sánh sốc phản vệ và sốc vagal:
Đặc điểm |
Sốc phản vệ |
Sốc vagal |
Nguyên nhân |
Phản ứng dị ứng |
Kích thích dây thần kinh phế vị |
Khởi phát |
Nhanh |
Từ từ |
Triệu chứng hô hấp |
Khó thở, thở khò khè |
Thở chậm |
Triệu chứng tuần hoàn |
Huyết áp tụt nhanh, mạch yếu |
Huyết áp tụt, mạch chậm |
Triệu chứng da |
Nổi mề đay, ngứa |
Da xanh tái |
Triệu chứng khác |
Buồn nôn, nôn, sưng phù |
Chóng mặt, hoa mắt |
Export to Sheets
|