Suy thận mạn là hậu quả của các bệnh thận mạn tính, do giảm sút từ từ số lượng nephron làm giảm dần chức năng của thận 1. Khái quát chung trong điều trị suy thận mạn. Áp dụng các biện pháp điều trị dành cho bệnh nhân suy thận mạn phụ thuộc vào giai đoạn hay nói cách khác là mức độ nặng, nhẹ của suy thận mạn. - Trong giai đoạn sớm của suy thận mạn: điều trị bảo tồn gồm: chế độ dinh dưỡng, thuốc, điều trị nguyên nhân. với mục đích làm chậm suy thận mạn diễn tiến đến giai đoạn cuối. - Trong giai đoạn cuối của suy thận mạn: phối hợp giữa điều trị bảo tồn và các biện pháp điều trị thay thế thận như lọc màng bụng, thẩm phân máu (thận nhân tạo), ghép thận, - Sau ghép thận vẫn phải điều trị bảo tồn. 2. Ðiều trị bảo tồn suy thận mạn. Mục đích của điều trị bảo tồn là đảm bảo cho người bệnh giữ được chức năng thận với thời gian dài nhất có thể được. Mục tiêu: + Làm chậm tiến triển của suy thận, + Giảm thiểu sự tích lũy của urê và những độc tố thuộc urê, + Kiểm soát tốt tăng huyết áp, + Ngăn ngừa xơ vữa và ảnh hưởng trên tim mạch của nó, + Giữ được cân bằng nước điện giải và calciphospho. + Tránh sự thiếu dinh dưỡng và giữ gìn tốt hơn chất lượng sống của người bệnh. Ðiều trị bảo tồn bao gồm những biện pháp tiết thực và thuốc, những biện pháp này cần phải thực hiện ở giai đoạn sớm để bệnh nhân tránh những biến chứng. 2.1. Làm chậm tiến triển của suy thận mạn: Ngoài điều trị bệnh nguyên dẫn đến suy thận mạn: - Kiểm soát có hiệu quả huyết áp. - Sử dụng thuốc ức chế men chuyển hoặc chẹn thụ thể của angiotensine II. - Chế độ ăn hạn chế Protide. - Kiểm soát có hiệu quả đường huyết ở những bệnh nhân đái tháo đường. 2.1.1 Điều trị tăng huyết áp. - Khi kiểm soát tốt tăng huyết áp sẽ làm chậm rất hiệu quả diễn tiến của các bệnh thận mạn. - Giữ huyết áp của bệnh nhân suy thận mạn ở mức: + Dưới 130 / 85 mm Hg khi prôtêin niệu dưới 1 g / 24 giờ. + Dưới 125 / 75 mm Hg khi prôtêin niệu trên hoặc bằng 1 g / 24 giờ. 2.1.2. Chẹn hệ thống Rénin – Angiotensine (kiểm soát được huyết áp, làm giảm tối đa prôtêin niệu). + Ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 1 có prôtêin niệu cần được điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển: Captopril, Perindopril + Ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 2 có prôtêin niệu cần được điều trị bằng thuốc chẹn thụ thể của angiotensine II: Losartan, Telmisartan, Telmisartan plus (Micardis plus) 2.1.3. Hạn chế protide: Làm chậm tiến triển của suy thận mạn: prôtide từ 0,8 đến 1g/kg/ngày ở những bệnh nhân có độ lọc cầu thận dưới 60 ml/phút. Nhưng khẩu phần hạn chế prôtide này phải có calori đầy đủ (30 đến 35 kcal/kg/ngày). 2.1.4. Dự phòng những nguyên nhân của suy thận cấp: cần phải loại bỏ các yếu tố thuận lợi của suy thận cấp trên những đối tượng này. 2.2. Điều trị biến chứng của suy thận mạn 2.2.1 Điều trị thiếu máu: - Điều trị thiếu máu ở bệnh nhân Suy thận mạn đã có những tiến bộ nhờ Erythropoeétine tái tổ hợp (r -HuEPO): Các chế phẩm thường dùng là EPREX, EPOKIN và RECORMON được sử dụng bằng đường tiêm dưới da với bơm tiêm tự động, cho phép người bệnh có thể tự thực hiện. - Điều chỉnh thiếu máu phải từ từ để tránh xuất hiện hoặc gia tăng huyết áp, liều lượng tấn công trung bình là 50 đến 70 đơn vị/kg/tuần bằng 2 lần tiêm. 2.2.2 Điều trị những rối loạn Calci - phospho. Mục đích của điều trị là giữ canxi máu giữa 2,3 và 2,5 mmol/l (không vượt quá giới hạn này) và phốtpho máu dưới 1,7 mmol/l. Mặt khác tỷ lệ hocmon cận giáp PTH cần thiết phải được giữ ở mức lý tưởng ở bệnh nhân suy thận mạn là giữa 100 và 200 pg/ml 2.2.3. Điều trị toan máu: Toan máu là một hậu quả tương đối sớm của suy thận mạn, do giảm khả năng đào thải ion H+ qua đường thận. Cần được điều chỉnh tỷ lệ bicarbonate máu trên 22 mmol/l bằng cách bổ sung bằng Natri bicarbonate. 2.2.4. Điều trị tăng kali máu: Điều trị tăng kali máu mức độ trung bình bao gồm: + Hạn chế các thức ăn nhiều kali. + Dùng Kayexalate, Bicarbonate Natri. + Ngừng các thuốc gây tăng kali máu (thuốc lợi tiểu giữ Kali…) 2.2.5. Những biến chứng khác Những biến chứng khác của suy thận mạn thường đến muộn khi mức lọc cầu thận dưới 15ml/phút, cần thiết phải điều trị là: + Suy dinh dưỡng: bổ sung viên đạm uống Ketosteril + Những rối loạn tiêu hóa như chán ăn, buồn nôn, nôn mữa. Viêm dạ dày là thường gặp ở bệnh nhân suy thận mạn. + Viêm màng ngoài tim, có thể chèn ép tim. + Bệnh lý thần kinh ngoại biên loại viêm đa dây thần kinh. + Giảm đáp ứng miễn dịch: cần tiêm chủng vaccin sớm nhất là viêm gan siêu vi B. + Rối loạn chức năng đông máu: kéo dài thời gian chảy máu. 2.3. Điều trị những yếu tố nguy cơ tim mạch Điều trị một cách triệt để các bệnh lí tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, nghiện thuốc lá, béo phì. + Điều trị tăng huyết áp: Kiểm soát HA làm chậm tốc độ tiến triển suy thận, giảm nguy cơ độ nặng và tử vong do tim mạch và các biến chứng khác. Nhóm thuốc ức chế men chuyển, ức chế thụ thể angiotensin II, ức chế calci, lợi tiểu quai, thuốc tác dụng thần kinh trung ương (Alpha methyldopa),… 2.4. Chuẩn bị điều trị thay thế thận. + Tạo đường mạch máu để lọc máu ngoài thận. + Giáo dục người bệnh về các thông tin của điều trị thay thế thận suy. + Đề phòng một số nhiễm trùng bằng Vaccin: uốn ván, viêm gan B, phế cầu... 3. Điều trị thay thế thận suy. 3.1.Tiêu chuẩn quyết định điều trị thay thế thận suy. Tiêu chuẩn chung để quyết đinh điều trị thay thế thận suy được chấp nhận ở nhiều nước trên thế giới là khi mức lọc cầu thận giữa 5 và 10ml / phút. 3.2. Lọc máu chu kỳ. Nguyên lý chính của thẩm phân (lọc máu) là dựa trên sự trao đổi giữa máu của bệnh nhân và dịch thẩm phân mà thành phần cấu tạo gần giống với huyết tương bình thường thông qua một màng bán thấm. Sự trao đổi này cho phép bài xuất những sản phẩm cặn bã azôte và những độc tố thuộc urê khác, đồng thời đưa vào huyết tương của người bệnh một nồng độ các chất điện giải. Có hai phương pháp chính trong lọc máu chu kỳ, khác nhau cơ bản về bản chất của màng lọc: Thẩm phân máu (hémodialyse) hoặc là lọc ngoài cơ thể (Dialyse extracorporelle) sử dụng màng lọc nhân tạo trong khi thẩm phân màng bụng hoặc lọc trong cơ thể, dùng chính lá phúc mạc của người bệnh. Hai phương pháp này cho phép thay thế chức năng bài tiết và điều hòa nước điện giải của thận bị hư hỏng, nhưng không có khả năng bù trừ lại những chức năng nội tiết của thận, cần thiết phải điều trị bảo tồn kết hợp. 3.3. Ghép thận. Trong các biện pháp điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối, ghép thận được xem là phương pháp mang lại hiệu quả nhất, không những thay thế chức năng bài tiết mà còn hồi phục chức năng nội tiết của thận. Ghép thận có thể thực hiện ở tất cả bệnh nhân suy thận mạn cho dù họ đã lọc máu hoặc sắp lọc máu, thông thường là những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối và với điều kiện là bệnh nhân hoàn toàn tự nguyện ghép thận và không có chống chỉ định. Độ tuổi giới hạn trước đây từ 50 đến 55 tuổi, hiện nay đã có thể kéo dài độ tuổi đến 65 tuổi.
|