Trong tiếp cận chẩn đoán triệu chứng run, bên cạnh việc quan sát lâm sàng một cách hệ thống, chúng ta cần khai thác thông tin bệnh sử, khám lâm sàng thông qua một số nghiệm pháp chuyên biệt.
Cách tiếp cận được khuyến cáo là xác định ngay tình trạng bệnh thuộc thể nào trong số 4 thể lâm sàng của run. Do các bệnh lý khi diễn tiến đến giai đoạn trễ đều có thể xuất hiện nhiều kiểu run khác nhau, làm cho khoản cách lâm sàng giữa các thể không còn điển hình. Theo chúng tôi thì có thể tiếp cận tuần tự từng bước như sau:
Khai thác thông tin bệnh sử một cách chi tiết, nhận định than phiền ban đầu – lý do khám bệnh là gì, từ đó xếp bệnh nhân vào theo một trong số bốn thể lâm sàng của run.
Nhận định các dấu chứng phối hợp với run và mức độ ảnh hưởng của triệu chứng đến cuộc sống.
Đi từ thể run khi nghỉ -> run khi giữ nguyên tư thế -> run khi cử động và cuối cùng là run khi đến gần vị trí chính xác. Cần xếp theo thể lâm sàng cao nhất nếu bệnh nhân có bất cứ triệu chứng nào thuộc nhóm đó.
Bệnh nhân có thể có nhiều thể rối loạn phối hợp nhất là đối với bệnh nhân là người lớn tuổi, có nhiều bệnh phối hợp, có sử dụng nhiều nhóm thuốc – chất kích thích có tính chất hướng thần kinh.
Một số bệnh lý nội khoa có thể gây tình trạng run điển hình như bệnh cường giáp, u tuyến thượng thận, tai biến mạch máu não gây yếu liệt, hội chứng chóng mặt tiền đình, hội chứng cai nghiện rượu và các chất kích thích.
· Bảng: Chẩn đoán phân biệt bệnh Parkinson và run vô căn4
Đặc điểm lâm sàng
Bệnh Parkinson
Run vô căn
Tuổi bắt đầu
>50
2 đỉnh vào khoảng độ tuổi 20 và 60
Giới tính
Nam nhiều hơn nữ
Đều ở 2 giới
Tiền căn gia đình
>25%
>50%
Bất đối xứng
Không đối xứng
Đối xứng
Tần số run
4 - 6 nhịp/giây
4 - 10 nhịp/giây
Đặc điểm run
Lúc nghỉ
Thân, cử động
Sấp – ngữa
Gập – duỗi
Phân bố
Tay chân, cằm, lưỡi
Tay, đầu, giọng nói
Dấu hiệu kèm theo
Vận động chậm, co cứng cơ, rối loạn dáng đi thăng bằng, tư thế thân người không vững, viết chữ lí nhí
Điếc, rối loạn trương lực cơ, có thể giống bệnh Parkinson