Thông tin bệnh sử về đặc điểm của run tại thời điểm xuất hiện là quan trọng trong gợi ý chẩn đoán. Thông thường thì bệnh nhân và thân nhân sẽ lưu ý rõ những đặc điểm này vì bản thân dấu chứng run là điển hình và không thể nhầm lẫn với các biểu hiện sinh lý khác của cơ thể. Đối với trường hợp triệu chứng run có thể bắt đầu không rõ ràng, chúng ta có thể khai thác những thông tin lên đới đến run như việc chữ viết bất thường, ảnh hưởng sinh hoạt hằng ngày (cầm đũa, cầm chén, động tác chính xác)...
Tiền căn gia đình có người bị bệnh Parkinson, bệnh run vô căn hoặc các rối loạn thần kinh sớm đều ít nhiều có thể liên quan đến tình trạng run hiện nay. Thể bệnh run vô căn có liên đối rối loạn nhiễm sắc thể thường, do vậy tiền căn gia đình góp phần giải thích trong 50% bệnh nhân. Đối với bệnh Parkinson, mặc dù xuất hiện rời rạc nhưng tiền căn gia đình có người cùng mắc bệnh cũng được ghi nhận ở 15% số bệnh nhân; nhất là trong trường hợp có người cùng huyết thống (cha, mẹ, anh chị em ruột)12.
Thông tin về các bệnh lý nội ngoại khoa phối hợp có thể gợi ý nguyên nhân gây run. Một bệnh nhân đang điều trị bệnh cường giáp thì run có thể là triệu chứng của điều trị chưa ổn định. Ở bệnh nhân có hen phế quản đang sử dụng thuốc đồng vận bêta thì run có thể là tác dụng phụ của thuốc, ở bệnh nhân đái tháo đường thì run có thể là biểu hiện của cơn hạ đường huyết.
Danh sách thuốc hiện dùng và đã dùng cũng cần được khai thác chi tiết, nhất là những thuốc có cơ chế thông quan kích thích hệ giao cảm, làm nặng thêm tình trạng run sinh lý như thuốc kháng histamin, hormone giáp, các thuốc nhóm xanthine như theophylline, caffein... Đặc điểm run xuất hiện đột ngột sau khi bệnh nhân sử dụng thuốc hoặc thay đổi thuốc là đặc thù của run do tác dụng phụ của thuốc.