Sinh lý bình thường khi mang thai
Toàn thế giới có khoảng 1,62 tỷ người (24,8%) thiếu máu. Trong đó khoảng 30 - 40% thiếu máu gặp ở trẻ em chưa đến trường và thai phụ. Nguyên nhân thường gặp nhất là thiếu máu do thiếu sắt.
1. Những thay đổi huyết học trong lúc mang thai
1.1 Những thay đổi huyết học:
- Cung lượng tim tăng từ 30 - 50%.
- Thể tích huyết tương tăng nhiều hơn thể tích huyết cầu. Do đó, Hematocrit (Hct) thường giảm. Vì thể không nên dựa vào Hct để chẩn đoán thiếu máu. Hemoglobin giảm nhẹ khi có thai, thấp nhất khi thai 30 tuần.
1.2 Vai trò của các chất cần thiết cho sự tạo máu:
1.2.1 Sắt:
- Một trong những nguyên liệu quan trọng để tạo hồng cầu là sắt. Nhu cầu và chuyển hóa sắt trong thai kỳ có thay đổi và tăng lên. Khi có thai, nhu cầu sắt tăng thêm 1.000 mg trong đó 300 mg cho thai và nhau; 500 mg cho hemoglobin trong máu mẹ, và 200 mg để bù đắp cho sự bài tiết. Nhu cầu sắt có thể tăng lên rất nhiều nếu sản phụ mang đa thai.
- Không có hiện tượng hành kinh trong khi mang thai, làm giảm mất sắt.
- Hấp thụ sắt trong thời gian có thai tăng 30 - 90%.
- Nếu thai phụ không thiếu sắt trước khi mang thai, mang đa thai, xuất huyết trong thai kỳ thì việc huy động nguồn sắt dự trữ từ cơ thể thai phụ có thể đáp ứng được nhu cầu vào cuối thai kỳ.
- Mất máu trong lúc sổ nhau, băng huyết sau sanh, cho con bú .... làm tăng nhu cầu sử dụng sắt.
- Nếu thai phụ mang thai quá dày, làm mất khả năng tái tạo và dự trữ sắt.
1.2.2 Acid Folic:
- Acid folic cần thiết cho sự tổng hợp chất liệu di truyền (DNA), phát triển và phân chia tế bào, tổng hợp nhóm Hem của Hemoglobin.
- Acid folic là coenzym của nhiều phản ứng và cần thiết trong chuyển hóa acid amin.
- Nếu tổng hợp DNA bất thường sẽ ảnh hưởng lên nguyên hồng cầu, làm hồng cầu to bất hường nhưng hàm lượng huyết cầu tố (hemoglobin) bình thường.
- Nhu cầu acid folic trong thai kỳ thường tăng gấp đôi.
1.2.3 Vitamin C: làm tăng khả năng hấp thu sắt.
|