Mỗi phụ nữ mang thai phải được quản lí thai và khám thai ít nhất 4 lần trong thai kỳ:
+ 1 lần trong 3 tháng đầu,
+ 1 lần trong 3 tháng giữa,
+ 2 lần trong 3 tháng cuối.
Chăm sóc trước sinh cần được thực hiện theo 9 bước sau:
+ Hỏi: bản thân, gia đình, các yếu tố liên quan,…
+ Khám toàn thân
+ Khám sản khoa
+ Làm xét nghiệm
+ Tiêm phòng uốn ván
+ Cung cấp thuốc thiết yếu
+ Giáo dục sức khỏe
+ Ghi chép sổ và phiếu khám thai, phiếu hẹn.
+ Kết luận, dặn dò
2.1. Chăm sóc trước sinh 3 tháng đầu
Ba tháng đầu (từ 0 đến 13 tuần) là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển của thai nhi. Đây là giai đoạn các cơ quan quan trọng và các phần cơ thể của thai nhi sẽ bắt đầu hình thành và hoàn thiện, do đó đây cũng là thời kỳ mà thai nhi chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi các yếu tố bên ngoài. Đối với người mẹ, giai đoạn này thường đặc trưng bởi mệt mỏi, buồn nôn và thay đổi cảm xúc. Đối với người thầy thuốc, việc lên kế hoạch chăm sóc từ những ngày đầu tiên thai kỳ là thời điểm tốt nhất giúp xác lập thời kỳ thai nghén khỏe mạnh.
2.1.1. Chẩn đoán thai nghén
Các test thai nghén hiện nay giúp xác định có thai sớm, chỉ sau quan hệ tình dục từ 7 đến 10 ngày. Chẩn đoán có thai dựa trên tiền sử kinh nguyệt, test thử thai nhanh quickstick, định lượng βhCG trong máu hoặc siêu âm. Các dấu hiệu mà người phụ nữ có thể tự nhận biết được gồm: chậm kinh, vú căng và nở ra, mệt mỏi và buồn nôn.
2.1.2. Xác định ngày dự kiến sinh (EDC: expected date of confinement)
Xác định ngày dự kiến sinh đúng (EDC) là một dấu mốc để phát hiện và quản lí có hiệu quả các vấn đề trong thai kỳ như: thai chậm phát triển trong tử cung, chuyển dạ sớm, đa thai, thai quá kỳ hạn,...
Phương pháp đơn giản nhất để ước tính EDC dựa trên ngày đầu tiên của chu kỳ kinh cuối cùng, xác định điều này phải tính đến độ tin cậy của trí nhớ người bệnh, độ dài và tính đều đặn của chu kỳ kinh nguyệt.
- Quy luật Nagele (+7/-3) ước tính EDC bằng cách lấy ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối thêm 7 ngày và trừ đi 3 tháng. Phương pháp này tính dựa trên chu kỳ kinh 28 ngày. Ví dụ, ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối là ngày 9/6, vậy ước tinh EDC sẽ là 16/3 năm sau.
- Quy tắc 9 tháng 10 ngày: Lấy ngày đầu kỳ kinh cuối cùng, đếm thêm 9 tháng rồi cộng thêm 10 ngày nữa là đến ngày dự kiến sinh.
Đối với những người không nhớ được ngày đầu kỳ kinh cuối hay có chu kỳ kinh nguyệt kéo dài hoặc không đều, EDC được ước tính qua khám thai. Sử dụng siêu âm để tính tuổi thai là phương pháp hiện nay đang áp dụng phổ biến. 5 tuần đã có thể thấy túi thai trong tử cung, 7-8 tuần thấy tim thai và ước tính EDC dựa vào đo chiều dài đầu mông khi CRL ≤ 84mm. Đo đường kính lưỡng đỉnh của thai là phương pháp đáng tin cậy để xác định tuổi thai ở tuổi thai 20 – 30 tuần.
2.1.3. Khai thác tiền sử và đánh giá nguy cơ
- Tiền sử bản thân: Cần được khai thác một cách đầy đủ và chi tiết, nhất là tiền sử sản khoa: chu kỳ kinh nguyệt, chỉ số PARA, tiền sử nạo phá thai, các vấn đề bất thường gặp ở lần mang thai trước. Tiền sử bệnh lý bản thân trước kia và hiện tại, các bệnh mạn tính hoặc bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Tiền sử dị ứng và sử dụng thuốc, tiền sử các bệnh lý tâm thần kinh.
- Tiền sử gia đình: Khai thác các bệnh lý có tính chất di truyền có thể liên quan đến thai phụ và thai nhi. Khai thác tiền sử gia đình cần bổ sung tiền sử của từng thành viên một cách cụ thể, bao gồm thông tin về bệnh, các dị tật bẩm sinh, chậm phát triển tâm thần vận động. Khai thác tiền sử xã hội cần mô tả trình độ học vấn của người bệnh, tình trạng làm việc, tôn giáo, lối sống.
- Các hành vi có nguy cơ phải được ghi nhận: Sử dụng rượu và chất uống có cồn, hút thuốc lá, ma túy, môi trường độc hại, mới phơi nhiễm với các bệnh lây truyền đặc biệt là Rubella hoặc Toxoplasmose, sử dụng thuốc,…
2.1.4. Khám thực thể và xét nghiệm cận lâm sàng
Trong lần khám trước sinh đầu tiên của thai phụ, người thầy thuốc cần khám thực thể một cách toàn diện, đặc biệt quan tâm tới huyết áp, kích thước và hình dáng tử cung, cấu hình khung chậu.
- Huyết áp: việc đo huyết áp trong 3 tháng đầu thai kỳ nhằm xác định những người phụ nữ bị tăng huyết áp trước đó. Phụ nữ tăng huyết áp trong thời kỳ mang thai có nguy cơ bị tiền sản giật, cần được đánh giá thêm các yếu tố liên quan khác. THA thai kỳ là THA xảy ra sau tuần 20 của thai kỳ và kết thúc vào tháng thứ 3 sau sinh mà không liên quan đến tình trạng tiền sản giật ở mẹ hay thai nhi. Phụ nữ bị THA mạn tính, khi mang thai có nguy cơ cao hơn bị các biến chứng rau bong non, tiền sản giật, sản giật, sảy thai, sinh non, cân nặng sơ sinh thấp, tử vong chu sinh cao và đái tháo đường thai kỳ.
- Protein niệu: Phát hiện protein niệu trong 3 tháng đầu thai kỳ không có giá trị giúp đự đoán tiền sản giật mà giúp xác định các bệnh lý về thận và nhiễm trùng đường tiểu. Protein niệu liên quan đến tiền sản giật xuất hiện sau tuần 20 thai kỳ. Kiểm tra protein niệu là rất cần thiết ở lần thăm khám đầu tiên khi xác định có thai và trong bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ.
- Các xét nghiệm: Ngoài các xét nghiệm thường quy như nhóm máu, tổng phân tích tế bào máu, phân tích nước tiểu, người phụ nữ có thai cần phải được làm thêm các xét nghiệm sàng lọc trong 3 tháng đầu như test nhanh HIV, viêm gan B, Rubella, giang mai. Đối với những phụ nữ có nguy cơ cao nên làm thêm một số xét nghiệm như viêm gan C, Chlamydia, lậu cầu
- Sàng lọc đột biến nhiễm sắc thể thai nhi: Double test là xét nghiệm sàng lọc trước sinh cho các thai phụ nhằm đánh giá nguy cơ thai nhi mắc các dị tật của hội chứng Down, hội chứng Patau và hội chứng Edwards. Xét nghiệm Double test nhằm định lượng β-hCG tự do và PAPP-A trong máu thai phụ. Từ kết quả trên, kết hợp với siêu âm đo độ mờ da gáy, chiều dài đầu mông, đường kính lưỡng đỉnh... cùng một số chỉ số khác như tuổi mẹ, cân nặng, chiều cao... một phần mềm chuyên dụng sẽ đưa ra kết quả đánh giá nguy cơ dị tật của thai nhi. Tuy nhiên Double test không phải là xét nghiệm chẩn đoán, chỉ là xét nghiệm sàng lọc nhằm đánh giá nguy cơ dị tật thai của 3 hội chứng trên. Tùy vào mức độ nguy cơ mà các bác sĩ sẽ đưa ra lời khuyên tiếp theo như thực hiện Triple test hay chọc ối.
- Siêu âm hình thái thai nhi 3 tháng đầu: Thời điểm quan trọng nhất là thời gian khi thai được 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày. Ở thời điểm này, siêu âm tính tuổi thai là cực kỳ chính xác. Ngoài ra, đây là thời điểm duy nhất có thể đo khoảng sáng sau gáy để đự đoán nguy cơ mắc một số bất thường nhiễm sắc thể nguy hiểm.
2.1.5. Giáo dục thai phụ và sự nâng đỡ tâm lý xã hội
Trong 3 tháng đầu thai kỳ, thai phụ nên đi khám mỗi tháng 1 lần. Trong các lần khám thường quy, BSGĐ cần hướng dẫn cho thai phụ về các triệu chứng và mốc thời gian có thể xảy ra triệu chứng đó. Các buổi trao đổi nên tập trung vào việc điều chỉnh hành vi lối sống và cảm xúc của thai phụ. Sự mệt mỏi, buồn nôn, táo bón là những vấn đề sức khỏe thường có trong 3 tháng đầu thai kỳ
- Cân nặng và chỉ số khối cơ thể (BMI): Quản lí vấn đề tăng cân trong thời kỳ mang thai nên được quan tâm đúng mực. Thông thường, một người phụ nữ chỉ nên tăng 8 - 12kg trong suốt thai kỳ. Tăng cân dưới mức cần thiết liên quan đến nguy cơ trẻ sơ sinh nhỏ hơn tuổi thai, sinh non, cân nặng sơ sinh thấp, thai phụ không đủ sữa nuôi con. Tăng cân trên mức cần thiết là một trong nhiều yếu tố nguy cơ gây nên tình trạng trẻ sơ sinh lớn hơn tuổi thai, thai nhi lớn, tăng tỉ lệ mổ lấy thai, tăng nguy cơ bị THA và tiền sản giật.
- Can thiệp sức khỏe dự phòng:
+ Acid folic: cần được bổ sung trước khi có thai 1 tháng và trong 3 tháng đầu thai kỳ giúp làm giảm nguy cơ dị tật ống thần kinh với liều khuyến cáo khoảng 400µg/ngày.
+ Các vitamin khác: bổ sung vitamin A, C, E là không có lợi trong quá trình
mang thai, đôi khi còn gây hại
+ Sắt: theo khuyến cáo chỉ bổ sung sắt khi có tình trạng thiếu hụt sắt không có lợi cho sức khỏe của thai phụ và thai nhi. Không bổ sung sắt khi không cần thiết, dư sắt cũng có thể có hại
+ Iod: khi mang thai, lượng iod cần dùng nhiều hơn, do đó cần bổ sung
150mcg/ngày để đảm bảo đủ lượng iod cung cấp cho các hoạt động của cơ thể
+ Tiêm phòng: nên tiêm phòng vắc xin cúm cho phụ nữ trước khi mang thai, trong thời kỳ mang thai nếu đang trong mùa cúm
- Hoạt động tình dục: quan hệ tình dục có thể tiếp tục trong suốt thời kỳ thai nghén nếu không có chống chỉ định như chảy máu âm đạo hay chuyển dạ sớm.
- Những vấn đề tâm lý bao gồm sự thay đổi về hình ảnh của cơ thể, cảm giác mất kiểm soát sợ và tưởng tượng, sự điều chỉnh vai trò chức năng của các thành viên trong gia đình, các mối quan tâm về tài chính là những vấn đề BSGĐ cần tư vấn cho thai phụ.
2.2. Chăm sóc trước sinh 3 tháng giữa
Ba tháng giữa bắt đầu từ tuần 14 đến tuần 26 của thai kỳ. Trong giai đoạn này, kích thước của thai nhi tăng khá nhanh từ khoảng 7,6 cm tăng lên đến khoảng 23 cm, do đó thai phụ cảm nhận được cái thai rõ ràng. “Thai máy” là hiện tượng được quan tâm nhiều nhất trong thời kỳ này, thường xuất hiện ở tuần thứ 20 với con đầu và tuần 16 với con thứ 2 trở đi, thai máy trở thành một cầu nối giao tiếp giữa bố mẹ và thai nhi. Các hoạt động trong bào thai như đạp chân, bú mút, nắm mở bàn tay giúp cho hệ cơ của trẻ phát triển.
Thời gian này, cái bụng bầu chưa lớn đến mức cản trở giao hợp và không còn vấn đề về phòng tránh thai, cũng như nguy cơ sảy thai nhìn chung đã qua. Ba tháng giữa có thể là cao điểm về mặt tâm lý và thể lực cho bà mẹ tương lai. Khoảng thời gian này, huyết áp thai phụ có giảm chút ít do tăng lưu lượng máu nuôi dưỡng thai, đây là hiện tượng có thể dẫn đến thai phụ phàn nàn vì bị choáng váng hay đau đầu.
Đối với BSGĐ, đây là khoảng thời gian lý tưởng để tìm hiểu rõ hơn về các cặp vợ chồng, tạo nền tảng vững chắc để làm với nhau trong cuộc chuyển dạ và đẻ. Cần thảo luận những điều mong đợi của gia đình và cá nhân về quan hệ họ hàng, mong muốn cuộc sống.
Ngoài việc thực hiện các thăm khám thường quy như kiểm tra công thức máu, nghiệm pháp rối loạn dung nạp glucose, xét nghiệm nhóm máu Rh với thai phụ có Rh(-); BSGĐ nên lưu ý đánh giá sau:
- Siêu âm hình thái thai nhi: Tất cả các thai phụ nên được kiểm tra đánh giá giải phẫu thai từ tuần 18 -20 thai kỳ bằng siêu âm để theo dõi được quá trình phát triển cũng như phát hiện sớm các bất thường bẩm sinh, cho phép người phụ nữ có những lựa chọn về cuộc sinh sản của mình.
- Xét nghiệm sàng lọc: trong 3 tháng giữa thai kỳ, xét nghiệm sàng lọc trước sinh nhằm phát hiện nguy cơ thai nhi có bất thường nhiễm sắc thể và dị tật ống thần kinh được gọi là “Triple test” nên được thực hiện nên được thực hiện trong khoảng thời gian từ 15 tuần đến 19 tuần 6 ngày, tốt nhất khi thai 16-18 tuần. Đây là xét nghiệm được khuyến cáo cho những đối tượng có nguy cơ dị dạng thai cao như mẹ lớn tuổi (≥35 tuổi), tiền sử sảy thai liên tiếp, thai lưu hay sốt trong ba tháng đầu, nghề nghiệp tiếp xúc hóa chất, phóng xạ; dùng thuốc trong thời kỳ mang thai không theo chỉ dẫn của thầy thuốc; tiền sử đẻ con bất thường hoặc siêu âm nghi ngờ thai bất thường.
2.3. Chăm sóc trước sinh 3 tháng cuối
Là giai đoạn cuối cùng của thai kỳ từ tuần 27 đến tuần 40 hoặc hơn nữa. Đối với thai phụ, đây là giai đoạn thường cảm thấy trôi qua chậm chạp. Bụng to nhanh gây khó khăn trong các hoạt động, sự mệt mỏi, kém thoải mái, khó ngủ, thở ngắn, đi tiểu nhiều lần là những vấn đề của thai phụ. Đối với BSGĐ, đây là thời gian theo dõi y học tích cực hơn vì tỷ lệ mắc các biến chứng (như cao huyết áp, tiền sản giật, ngôi thai chưa thuận) tăng lên khi cuộc chuyển dạ sắp đến gần. Tần số khám thai của thai phụ khỏe mạnh là mỗi tháng 1 lần. Trong tuần từ 28 đến 36, tấn số khám tăng lên 2 đến 3 tuần 1 lần, và 1 tuần 1 lần trong tháng cuối cùng. Những thai phụ có nguy cơ cao cần theo dõi chặt chẽ hơn.
- Thăm khám lâm sàng: Ngoài việc thăm khám tổng quát, BSGĐ nên lưu ý tiếp tục theo dõi huyết áp, quá trình tăng cân, nhịp tim và chuyển động của thai.
Thai phụ là người có thể theo dõi tốt nhất chuyển động của thai nhi hàng ngày,
do đó cần hướng dẫn thai phụ đến khám bác sĩ ngay nếu thấy thai chuyển động ít hơn
bình thường. Bình thường thai nhi chuyển động ít nhất 6-10 lần mỗi giờ. 3 tháng cuối của thai kỳ, thai phụ nên theo dõi chuyển động của bé 2 lần mỗi ngày.
Khám thai, đo chiều cao tử cung, vòng bụng thai phụ, sờ nắn thai nhi để xác
định ngôi, thế, kiểu thế của thai nhi và theo dõi sự phát triển của thai.
- Cận lâm sàng:
+ Công thức máu: chú ý chỉ số HGB (đánh giá thiếu máu), HCT (tình trạng cô
đặc máu) và số lượng tiểu cầu
+ Xét nghiệm nước tiểu: là xét nghiệm thường quy đánh giá tình trạng nhiễm trùng, protein niệu kèm với tăng huyết áp là dấu hiệu của tiền sản giật, đường niệu là một trong những dấu chỉ điểm của đái tháo đường thai kỳ.
+ Siêu âm thai: Đánh giá kích thước, cân nặng thai nhi, ước lượng tuổi thai, ngôi, thế, kiểu thế, nước ối, tính chất nhau thai và các bất thường khác. Siêu âm thai là một trong những yếu tố quyết định việc sinh thường hay sinh mổ của thai phụ.
+ Non stress test (NST) là phương pháp phổ biến đánh giá sức khỏe thai nhi cùng với nghe nhịp tim thai và đếm cử động thai.
- Các bệnh lây truyền qua đường tình dục: Cần kiểm tra các thai phụ có yếu tố nguy cơ cao hoặc có triệu chứng các bệnh lây truyền qua đường tình dục như lậu, giang mai, viêm gan B, HIV,...
|