An toàn trong tiêm chủng
Trong năm 2011, Ủy ban tư vấn về thực hành tiêm chủng (ACIP) đã kết luận rằng các dữ liệu ghi nhận không có bất kỳ sự gia tăng về tần suất hoặc các bất thường của tác dụng phụ ở phụ nữ mang thai được chủng ngừa Tdap và số ít tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo là dường như không phải do chủng ngừa [8] [9] [10].
Các dữ liệu về việc nhận 2 liều Tdap và đa liều vaccine chứa độc tố uốn ván đã được xem xét. Nhận một liều thứ hai của Tdap ở các khoảng thời gian 5 hoặc 10 năm ở thanh thiếu niên và người lớn không mang thai, khỏe mạnh được dung nạp tốt, đau chỗ tiêm là tác dụng phụ thường gặp nhất [10] [11] [12]. Tần suất của các tác dụng phụ đối với liều thứ hai cũng tương tự như liều đầu ở trên cùng các đối tượng này và trên nhóm chứng (nhóm chủng ngừa Tadp lần đầu). Trong số ít các tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo, không có tác dụng phụ nào được cho là do chủng ngừa.
Sốt đã được báo cáo trong 2,4% -6,5% người chủng ngừa Tdap nhiều lần, tương tự như ở nhóm các đối tượng này sau khi tiêm liều Tdap đầu tiên và như nhóm chứng [10] [11]. Nghiên cứu trong khoảng thời gian ngắn (ví dụ: trong vòng 21 ngày hoặc ≤ 2 năm) giữa nhận vaccine Td và Tdap ở thành niên và người lớn không mang thai, khỏe mạnh ghi nhận không tìm thấy các tác dụng phụ nghiêm trọng [13] [14]. Sốt đã được báo cáo trong 1,7% -6,8% của các đối tượng chủng ngừa Tdap ≤ 2 năm sau lần nhận Td trước; tỷ lệ này so sánh với nhóm đối chứng và các nhóm nghiên cứu đoàn hệ đã được chủng ngừa Tdap cách đợt nhận Td trước một khoảng thời gian dài hơn [13] [15].
Một nguy cơ về mặt lý thuyết là các phản ứng nghiêm trọng tại chỗ (ví dụ: phản ứng Arthus, sưng toàn bộ chân tay) ở các thai phụ mang nhiều thai kì gần nhau. Phản ứng Arthus và sưng toàn bộ chân tay là phản ứng quá mẫn liên quan đến Td/ Tdap. Dữ liệu trên nhiều liều Td và TT chỉ ra rằng quá mẫn có liên quan với nồng độ cao hơn từ kháng thể lần trước [16] [17]. Tần suất các phản ứng bất lợi phụ thuộc vào thành phần kháng nguyên, công thức sản phẩm, nồng độ kháng thể từ trước liên quan đến khoảng thời gian tính từ liều cuối cùng, và số lượng liều chủng ngừa [16] [17]. Hầu hết các dữ liệu mang tính lịch sử, và nguy cơ tác dụng phụ nghiêm trọng có thể đã được giảm với công thức hiện nay có chứa liều TT thấp hơn.
TT và Td đã được sử dụng rộng rãi trong phụ nữ mang thai trên toàn thế giới để ngăn chặn bệnh uốn ván sơ sinh; nghiên cứu lớn về việc sử dụng TT trong khi mang thai đã được báo cáo không có tác dụng phụ nghiêm trọng có ý nghĩa lâm sàng [18] [19].
Các nghiên cứu đã kết luận rằng vaccine chứa độc tố uốn ván không làm tăng thêm nguy cơ xuất hiện các phản ứng bất lợi nghiêm trọng nào cho phụ nữ nhận Tdap trong mỗi thai kỳ [8] [20]. ACIP tuyên bố sự cần thiết phải có nghiên cứu về an toàn các tác dụng phụ nghiêm trọng khi Tdap được đưa ra trong thời gian mang thai tiếp theo. Kế hoạch giám sát an toàn ở phụ nữ mang thai sau khi tiêm ngừa Tdap bao gồm việc tăng cường giám sát qua Hệ thống báo cáo tác dụng bất lợi của vaccine (Vaccine adverse Event Reporting System ) và việc liên kết cácdữ liệu trong an toàn vaccine (Vaccine Safety Datalink) để đánh giá tác dụng phụ cấp tính, kết cục thai kỳ bất lợi ảnh hưởng đến mẹ, và kết quả sinh; việc đánh giá rủi ro của tác dụng phụ hiếm gặp ở thai phụ sau khi nhận Tdap sẽ yêu cầu thu thập dữ liệu trong nhiều năm [21].
|