Mục tiêu thảo luận:
- Trình bày được các đối tượng bệnh nhân thường mắc u phổi
- Trình bày một số chần đoán phân biệt của đám mờ nhu mô phổi
- Trình bày được một số dấu hiệu X quang của u phổi
Bệnh án
Bệnh nhân nam 60 tuổi được chỉ định chụp xquang vì thường xuyên ho
X-quang ngực cho thấy hình ảnh khối tổn thương có đường kính 6 cm ở vùng dưới bên trái của phổi, rìa không đều, gợi ý ung thư biểu mô phổi, tuy nhiên, cần được đánh giá thêm bằng CT ngực.
Bàn luận
Bệnh nhân được chụp CT ngực, cho thấy vùng tổn thương bắt cản quang vừa phải, bờ không đều, kích thước 5 × 6 cm ở phân thùy đỉnh của thùy dưới phổi trái và thùy lưỡi. Mạch máu nuôi u rõ. Một số vùng u bị hoại tử, kèm mức khí - dịch. Nhu mô phổi ung quanh thâm nhiễm. Trên phim còn phát hiện nhiều hạch trước khí quản, carina và dưới carina kích thước 11–17 mm. Chẩn đoán Carcinoma phổi được nghĩ đến. Các u phổi sau 40 tuổi (tuổi bệnh nhân này là 60 tuổi) nên được coi là ác tính trừ khi có bằng chứng ngược lại.
Sự phối hợp của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh trong chẩn đoán ung thư phổi là rất cần thiết. Xét về chi phí, mức độ sẵn có, và liều tia hấp thụ, trên lâm sàng X-quang là phương pháp được lựa chọn đầu tiên, và chụp điện toán vi tính cắt lớp được sử dụng để khẳng định chẩn đoán hoặc khi có nghi ngờ.
Chụp X quang lồng ngực: là xét nghiệm thường được sử dụng để chẩn đoán u phổi. Phim chụp X-quang phổi thường có thể phát hiện được các đám mờ bất thường ở phổi.
• Hình ảnh X-quang u phổi đa dạng, nhưng vẫn có những nét đặc thù:
- Một bóng mờ, viền sáng nham nhở, giảm đậm độ vùng trung tâm, thường là hình của một khối u phổi bị hoại tử rỗng ở giữa.
- Một bóng mờ có những bờ cong rõ tạo thành nhiều vòng cung, thường có tính chất ác tính vì nó là hình ảnh của những khối u đặc có nhiều múi.
- Hình ảnh đặc trưng của ung thư phổi vẫn là bóng mờ có bờ nham nhở nhiều tia. Tuy nhiên, trên cùng một khối u ta có thể thấy bờ nhiều vòng cung nối với bờ nham nhở nhiều tia.
- Đôi khi khối u có thể làm tắc hoặc đã ép một nhánh phế quản phân thuỳ, làm cho phần ngoại biên của phế quản bị bội nhiễm và tạo nên “một ổ áp xe phổi”. Khi đó, ung thư phổi bị dấu hiệu lâm sàng của áp xe phổi che lấp. Bệnh nhân sốt cao, ho khạc ra nhiều đờm lẫn mủ. Trên phim chụp X quang phổi có một hình mức nước trong một bóng hang tròn.
• Trên X quang cũng cần phân biệt u trung tâm với u ngoại biên.
- U trung tâm là u đã xâm nhập vào phế quản thuỳ hoặc phế quản gốc và bóng mờ của nó nối liền với trung thất trên, rốn phổi hoặc bóng tim. Muốn cắt bỏ những u loại này, nhiều khi phải cắt phổi hoặc cắt hai thuỳ.
- U trung tâm có thể gây xẹp một thuỳ phổi hoặc cả lá phổi.
- U ngoại biên có các kích thước nhỏ hơn (< 5 cm) và nằm gần thành ngực.
Tuy nhiên, có thể gặp những u to, đường kính gần 10 cm nằm chính giữa nhu mô phổi, chiếm gọn gần hết một thuỳ. Loại này không thể coi là u ngoại biên mặc dù ta có thể bỏ nó bằng cắt thuỳ phổi.
Nếu trường hợp ung thư phổi di căn vào hạch trung thất thì trên X quang thấy rốn phổi rộng ra, bờ ngoài của rốn phổi có thể có nhiều hình vòng cung. Nếu ung thư di căn vào hạch ngã ba khí- phế quản thì góc khí -phế quản rộng ra.
Nếu ung thư ở ngoại vi di căn sang màng phổi, xương sườn sẽ làm phá huỷ xương sườn và làm gẫy xương sườn.
Trong ung thư phổi, cần chụp phế quản có cản quang để góp phần vào chẩn đoán. Trong ung thư trung tâm, chụp phế quản có cản quang sẽ có hình ảnh đặc biệt: phế quản hẹp, thành phế quản nham nhở, phế quản bị cắt cụt.
Chụp cắt lớp điện toán (CT):
Chụp cắt lớp lồng ngực là phương pháp thường sử dụng để chẩn đoán ung thư phổi. Phương pháp này đặc biệt có giá trị trong việc xếp giai đoạn đối với các hạch của trung thất và của rốn phổi.
Để xác định rõ hơn những biến đổi bất thường của các hạch limphô trung thất, có thể bơm chất cản quang vào tĩnh mạch. Các hạch có kích thước lớn hơn 1cm rất có thể là các hạch đã có di căn ung thư
hướng chẩn đoán
Carcinoma phổi.
THẢO LUẬN LÂM SÀNG
Carcinoma phổi là loại ung thư ác tính gây tử vong phổ biến ở nam giới và hiện nay đã vượt qua ung thư vú là để thành loại do ung thư gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ. Hầu hết các ca tử vong do ung thư phổi có liên quan đến hút thuốc lá. Nguy cơ mắc ung thư phổi liên quan đến số lượng thuốc lá đã hút, số năm hút thuốc, độ tuổi bắt đầu hút thuốc và độ xâm nhập của khói thuốc trong phổi. Nguy cơ giảm khi ngừng hút thuốc nhưng không bao giờ biến mất hoàn toàn. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm di truyền, nghề nghiệp, và các bệnh lý nền tại phổi … có thể đóng một vai trò trong sự phát triển của ung thư phổi.
Bệnh nhân với khối u vùng trung tâm có thể gây tắc nghẽn phế quản lớn dẫn đến các biểu hiện ho, thở khò khè, ho ra máu và nhiễm trùng phổi. Sự phát triển của u trong lồng ngực có thể dẫn đến liệt dây thần kinh thanh quản trái, đau kiểu màng phổi hoặc thành ngực, các triệu chứng do chèn ép tĩnh mạch chủ trên hoặc u Pancoast. Về mặt mô học, các loại tế bào phổ biến trong ung thư phổi gồm ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô tế bào vảy, ung thư biểu mô tế bào nhỏ và ung thư biểu mô tế bào lớn không biệt hóa.
Hình ảnh X-quang tùy vào sự lan rộng của u trong lồng ngực: hủy xương, tràn dịch màng phổi, hạch rốn phổi, hạch trung thất, nốt phổi đối bên, khối trung thất, nốt màng phổi hoặc nốt dày vách liên thùy.
|