###https://bsgdtphcm.vn/video/audio/20240502cqb.mp3###
Phân tích yếu tố nguy cơ bệnh tăng huyết áp (THA) trên bệnh nhân:
Dựa trên thông tin bệnh án cung cấp, chúng ta cần phân tích từng lựa chọn để xác định yếu tố nguy cơ THA:
a) Là giới nữ:
-
Giới tính không phải là yếu tố nguy cơ độc lập đối với THA trước tuổi mãn kinh.
-
Sau tuổi mãn kinh, nguy cơ THA ở nữ giới tăng lên và có thể cao hơn nam giới.
-
Bệnh nhân trong trường hợp này 56 tuổi, đã mãn kinh, nên giới nữ có thể xem là một yếu tố nguy cơ.
b) Tuổi 56:
-
Tuổi tác là yếu tố nguy cơ quan trọng của THA. Nguy cơ THA tăng theo tuổi, đặc biệt là sau 40 tuổi.
-
Bệnh nhân 56 tuổi, nằm trong nhóm tuổi có nguy cơ cao.
c) BMI 25:
-
BMI 25 thuộc nhóm thừa cân, tuy nhiên chưa đến mức béo phì.
-
Thừa cân và béo phì là yếu tố nguy cơ THA.
-
Do đó, BMI 25 có thể xem là yếu tố nguy cơ, nhưng không mạnh bằng tuổi tác.
d) Ba mẹ đang điều trị bệnh tăng huyết áp:
-
Tiền sử gia đình THA là yếu tố nguy cơ quan trọng. Nếu bố mẹ hoặc anh chị em ruột bị THA, nguy cơ mắc bệnh của bạn sẽ cao hơn.
-
Bệnh nhân có cả bố và mẹ đều bị THA, nên đây là yếu tố nguy cơ đáng kể.
Kết luận:
Trong trường hợp này, tất cả các lựa chọn (a, b, c, d) đều là yếu tố nguy cơ của THA. Tuy nhiên, yếu tố nguy cơ mạnh nhất là d) Ba mẹ đang điều trị bệnh tăng huyết áp và b) Tuổi 56, tiếp theo là a) Là giới nữ và cuối cùng là c) BMI 25.
Giới tính nữ là giới tính bảo vệ chống lại bệnh tăng huyết áp
Ở độ tuổi 56 không phải là độ tuổi dịch tể ở nữ của bệnh tăng huyết áp nguyên phát
Ba mẹ đang bị bệnh tăng huyết nguyên phát nhưng không phải phát hiện ở giai đoạn sớm so vậy cũng không là yếu tố nguy cơ
Vậy ở đây chỉ có chỉ số BMI>23,5 là yếu tố nguy cơ duy nhất
|