
Lược đồ 1: Các nguyên nhân của đau vùng mặt
2.2.1 Nhiễm trùng:
Viêm mũi xoang: Viêm xoang cấp thường xảy ra sau nhiễm trùng hô hấp trên cấp tính, gây đau một bên, dữ dội, kèm sốt và nghẹt mũi. Viêm xoang mạn tính thường không đau, nhưng có nghẹt mũi và chảy dịch nhầy mủ
Nhiễm trùng răng: Đau xuất phát từ tủy răng thường mơ hồ, khó xác định vị trí, và có khuynh hướng lan xung quanh. Bất thường ở răng-men răng thường gây đau nhói và khu trú
Nhiễm trùng mắt: Đau ổ mắt có thể là do viêm giác mạc, viêm kết mạc và glaucoma. Bệnh lý liên quan đến thần kinh thị giác sẽ gây giảm thị lực và màu sắc.
2.2.2 Viêm:
Đau vùng mặt và không có bất kỳ triệu chứng nào của mũi thường không phải là do viêm xoang. Đau mặt thoáng qua kèm theo các triệu chứng khác của viêm mũi xoang có thể gây cho bệnh nhân cảm giác nặng mặt hơn khi đi máy bay, lặn hoặc trượt tuyết. Các khối viêm vùng da nông thường dễ nhận biết thông qua triệu chứng tại chổ.
2.2.3 Chấn thương
Đôi khi đau có thể kéo dài sau khi bị gãy xương mũi hoặc phẫu thuật vùng mũi.
2.2.4 Khối u:
Hiếm khi nào khối u vùng đầu và mặt lại biểu hiện với triệu chứng đau là dấu hiệu cảnh báo đầu tiên. Khi đau là một triệu chứng trong bệnh lý u, thì bệnh thường là triệu chứng đã diễn tiến kéo dài kèm với những dấu chứng khác.
2.2.5 Mạch máu thần kinh:
Nhức đầu từng cụm (cluster headache): Đau một bên rất dữ dội, cảm giác như dao đâm hoặc nóng rát, có thể xảy ra ở vùng trán, thái dương, ổ mắt, hoặc vùng trên má
Đau nửa đầu kịch phát mạn tính (chronic paroxysmal hemicrania): Đau dữ dội xảy ra ở phụ nữ vào bất cứ thời điểm nào trong ngày
Hội chứng SUNCT (short-lasting unilateral neuralgiform headache attacks with conjunctival injection and tearing): Hội chứng với những cơn đau ngắn, xảy ra thường xuyên, đau có tính chất một bên (mặt), kéo dài từ vài giây đến vài phút, có kèm theo chảy nước mắt và sung huyết kết mạc
Migraine: Gây đau đầu dữ dội, và một tỉ lệ nhỏ có thể khu trú đau ở vùng má, ổ mắt và trán
Đau đầu căng cơ (tension-type headache): Cảm giác nặng đầu hoặc cảm giác siết chặt vùng đầu, nhưng không kèm theo cảm giác mạch đập
Đau vùng giữa mặt: Gây cảm giác nặng mặt hoặc thắt nghẹt đối xứng, vị trí tại 1 /3 giữa của mặt, và chúng ta có thể gặp kèm theo nhức đầu do căng
Đau dây thần kinh sinh ba: Đau nhói dữ dội khi kích thích một điểm gây đau đặc hiệu, mặc dù sẽ có những khoảng trơ kéo dài >30 giây (giữa những đợt kích thích)
Đau thần kinh sau nhiễm herpes: Đau sau nhiễm herpes zoster có thể gặp ở 50% số bệnh nhân cao tuổi.
2.2.6 Khớp thái dương hàm:
Rối loạn ở khớp thái dương hàm thường bị một bên (90%) và thường xảy ra ở người trẻ có tiền căn nghiến răng, chấn thương, mới làm răng gần đây, lo âu, vận động nhiều vùng hàm.
2.2.7 Vô căn:
Đau vùng mặt không điển hình: Chẩn đoán loại trừ chỉ nên dùng sau khi đã loại trừ các bệnh thực thể. Bệnh sử thường mơ hồ và rời rạc, còn cơn đau lan tỏa rộng từ mặt xuống những khu vực khác ở đầu và cổ.
|