Logo Xem trang đào tạo trực tuyến arrow1
space


Thăm khám trẻ dưới 5 tuổi

(Tham khảo chính: ICPC )

Về cơ bản việc thăm khám cho trẻ em dưới 5 tuổi cũng cần tuân thủ các bước cơ bản như khám bệnh cho người lớn. Tuy nhiên, do các đặc điểm riêng biệt của trẻ nhỏ nên khám bệnh cho trẻ nhỏ cũng có những điểm đặc thù riêng.
4.1.1. Tiếp cận với trẻ
Khi được khám bệnh, trẻ dưới 5 tuổi thường có dấu hiệu bồn chồn lo lắng, thậm chí bất hợp tác do tiếp xúc vởi người lạ hoặc do nhớ lại những kinh nghiệm chịu từ những lần thăm khám trước. Bố mẹ của trẻ cũng có thể lo lắng về tình trạng bệnh tật của trẻ, bởi vì vậy làm dịu sự lo lắng của trẻ và người chăm sóc nuôi dưỡng trẻ là một nhiệm vụ của người bác sĩ gia đình khi thăm khám cho trẻ. Việc tiếp xúc thường xuyên và có mối quan hệ thân thiện với gia đình cũng có thể giúp bác sĩ gia đình hạn chế được những lo lắng không đáng có từ phía trẻ và gia đình. Tiếp cận với trẻ một cách dịu dàng, thoải mái, ung dung khi có đủ thông tin cần thiết giúp cho trẻ và bố mẹ tránh được những lo lắng khi đưa ừẻ đến thăm khám.
Việc tiếp cận với trẻ cần phải có sự thay đổi linh hoạt theo lứa tuổi và theo tình huổng thực tế. Trong khoảng 9 tháng đầu trẻ thường tỏ ra tin cậy và dễ hợp tác trong thăm khám bởi cỏ thể dễ dàng sử dụng đồ chơi hay một vật nào đó làm đổi hướng sự chú ý của trẻ khỏi chiếc ống nghe. Từ sau tháng thứ 9, trẻ em bắt đầu có phản ứng với người lạ, tình huống lạ và thường trở nên lo lắng và sợ hãi khi được thầy thuốc thăm khám. Từ thời điểm này đến lúc trẻ được 2 tuổi, thái độ thân mật, nhẹ nhàng, từ tốn của người thầy thuốc có thể giúp cho trẻ yên tâm, giữ im lặng và hợp tác tốt. Tuy nhiên, trong giai đoạn này trẻ ốm thường dễ bị kích động và lo lắng, đôi khi để có thể thăm khám được cần phải giữ chặt trẻ trong lòng cha mẹ.
Từ 24 đến 30 tháng tuổi, trẻ bắt đầu đáp ứng một cách hợp lý hơn với lời nỏi và có thể kiềm chế sự sợ hãi của chúng một cách tốt hơn. Việc thăm khám có thể diễn ra thuận lợi và mang lại kết quả tốt hơn nếu cha mẹ đã có sự trao đổi trước. Người thầy thuốc tiến hành khám lần lượt theo tuần tự khám trên người bố mẹ hay trên chân tay của trẻ trước khi đi tới ngực, tai... và nơi những nơi nhạy cảm hơn.
Với những trẻ lớn tuồi hơn đã có thể ngồi được thì tư thế ngồi trên lòng bố mẹ sẽ là tư thế thích hợp nhất cho việc thăm khám. Có thể hướng dẫn để trẻ tự ngồi lên lòng bố mẹ, hoặc bảo bố mẹ nắm lấy tay đứa trẻ nếu cần. Trẻ lớn hơn nữa có thể được khám trên bàn khám nhưng cần bảo đảm mối liên hệ chặt chẽ của trẻ với bố mẹ, tránh không được xen vào giữa đứa trẻ và bố mẹ cháu.
Với tất cả các lứa tuổi, cần cố gắng hạn chế việc gò ép cơ thể trẻ trong quá trình thực hiện việc thăm khám bệnh. Sự gò ép có thể làm tăng sự sợ hãi và phản kháng của trẻ. Trái lại tạo điều kiện để cho trẻ tự chủ một phần trong cuộc khám thường làm tăng thêm sự hợp tác của trẻ. Nếu cần phải gò ép trẻ thì phải giải thích một cách dịu dàng và thân thiện nhất có thể.
4.1.2. Hỏi bệnh sử
Trước hết, với trẻ em dưới 5 tuổi, do trẻ chưa thể diễn đạt được các triệu chứng của bản thân nên việc hỏi bệnh cần phải được thực hiện với bố mẹ hay người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Hơn nữa nhiều bệnh tật trong những năm đầu đời thường cỏ liên quan đến việc chăm sóc sức khoẻ cùa bà mẹ trước và trong thời kỳ mang  thai nên những thông tin này cần được quan tâm khai thác khi thăm khám cho trẻ dưới 5 tuổi. Trong giai đoạn này, trẻ tương đối nhạy cảm với các loại bệnh tật, các vấn đề sức khoẻ trong từng thời kỳ cũng thường có liên quan chặt chẽ với nhau đòi hỏi người bác sĩ gia đình phải có sự khai thác thông tin một cách đầy đủ toàn diện về cả quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, ốm đau bệnh tật của trẻ từ lúc sinh ra cho đên thời điểm thăm khám, cần tìm hiểu xem ai là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ để có thể thu thập được thông tin đầy đủ, chính xác. Các thông tin về ốm đau bệnh tật của trẻ cũng cần được khai thác một cách toàn diện trong bối cảnh chung về điều kiện kinh tế xã hội, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng và mối quan hệ giữa các thảnh viên trong gia đỉnh. Việc thu thập đầy đủ, toàn diện các thông tin vê trẻ ốm sẽ khiến cho thầy thuốc tự tin hơn khi thực hiện thăm khám và chẩn đoán bệnh. Việc hỏi bệnh cần được thực hiện đầy đủ cặn kẽ tuy nhiên không nên kéo dài quá có thể làm trẻ mất kiên nhẫn, hạn chế sự hợp tác trong giai đoạn thăm khám.
4.1.3. Trình tự thăm khám
Thứ tự của cuộc khám bệnh là rất quan trọng, vì trẻ nhỏ thường lo lắng, phản úng với việc thăm khám hoặc không kiên nhẫn.
Trong quá trình hỏỉ bệnh sử cần phải quan sát, ghi nhớ các biểu hiện chung của trẻ và cố gắng cảm nhận trạng thái cảm xúc cũng như những hoạt động của trẻ và bổ mẹ trẻ để có hướng tiếp cận phù hợp. Đầu tiên nên khám phần thích hợp nhất của cơ thế, thường bắt đầu khám từ những vùng ít phải thao tác và ít bất tiện nhất với trẻ.  Mọi dụng cụ cần thiết phải có sẵn trong tay khi bắt đầu khám. Trong quá trình thăm khám, trẻ sẽ được quan sát, đi lại nếu muốn, các bộ phận như các chi, ngực tim, hạch, cổ, đầu, sọ và thóp sẽ được khám.
Khám da: Hướng dẫn bố mẹ cởi lần lượt áo quần, giày tất cho trẻ. Kiểm tra, sờ nhẹ nhàng trên da xem có ban, hạch bạch huyết to và những vùng da nhạy cảm. Thường khám đầu, sọ và các chỉ trước, sau đó mới đến phần thân, lưng, bụng.
Việc khám ngực và nghe tim nên được thực hiện sớm vì thông tin thu được sẽ đầy đủ và chính xác hơn trong giai đoạn đầu khi trẻ còn im lặng và hợp tác tốt. Bắt đầu từ việc khám đằng sau lưng rồi sau đó mới chuyển ra trước ngực. Lưu ý luôn luôn phải làm ấm ống nghe trước khi đặt vào ngực trẻ. Để giảm bớt sự lo lắng của trẻ, có thể cho trẻ nắm ống nghe trước khi khám, đặt ống nghe vào bàn tay hoặc vào bàn chân đứa trẻ trước hoặc có thể khám cho bố mẹ hoặc người thân của trẻ trước.
Khám vùng bụng thường được thực hiện tiếp theo. Với trẻ nhỏ tốt nhất đặt nẳm ngửa trên lòng bố mẹ, mông trẻ được giữ bởi đầu gối cùa bác sĩ ngồi đối chạm vào đầu gối bố mẹ trẻ. Với trẻ lớn thì có thể đặt lên bàn khám nhưng  cha mẹ ở kề bên và nắm giữ trẻ. Đầu tiên, gõ nhẹ nhàng, rồi sờ gan và lách, sờ phần còn lại của bụng, vùng bẹn và sinh dục. Với trẻ trai cần kiểm tra mức độ nhạy cảm đau của tinh hoàn.
Cuối cùng khám đến tai, mặt và họng. Thường thì việc khám tai được thực hiện trước khi khám miệng. Vì nhiễm khuẩn hô hấp trên là một trong những nguyên nhân hay gặp nhất gây sốt ở trẻ nên khám tai một cách cẩn thận có tính chất quyết định trong việc đánh giá một đứa trẻ sốt. Cần tiến hành khám theo một trình tự, bắt đầu bằng việc kiểm tra vùng sau tai, nhằm phát hiện sự nhạy cảm đau và sưng của xương chũm; khám các hạch bạch huyết cổ và quanh tai sau đó mới bắt đầu dung ổng soi để khám bên trong taỉ.
Để khám trong tai, với trẻ nhỏ cần đặt trẻ nằm sấp, đầu quay về một bên, trên bàn khám. Với những trẻ từ khoảng 8 tháng đến 2 năm tuổi, trẻ có thể được khám khi ngồi trong lòng mẹ, một tay mẹ giữ ngực và tay con, còn tay kia giữ đầu. Với trẻ lớn hơn, có thể giữ cho trẻ nằm sấp, đầu nghiêng về một bên. Nêu trẻ không chịu hợp tác, cần phải giữ chặt trẻ một cách thích hợp để tránh nguy cơ gây tổn thương I trong khỉ khám.
Việc quan trong đầu tiên là kiểm tra màng nhĩ cùa trẻ bởi với một trẻ ốm, màng nhĩ bị viêm là một yếu tố quyết định cho việc kê đơn. Để có thể quan sát màng nhĩ, nếu cần có thể phải tiến hành lấy ráy tai cho trẻ một cách nhẹ nhàng, đôi khi còn cần phải rửa ống tai ngoài một cách khéo léo. Khi đã nhìn thấy màng nhĩ trước hết cần lưu ý đến màu, độ trong và tìm chất dịch ở quanh màng nhĩ. Màng nhĩ bình thường có màu hồng hơi xám. Khi trẻ khóc hay khi bị nhiễm khuẩn màng nhĩ có thể có màu mờ trong, và có thể trở nên đục nếu nhiễm khuẩn tái diễn. Thông thường  viêm tai giữa thanh dịch có thể được chần đoán bằng những bọt khí và dịch ở đằng sau, màng nhĩ mờ trong. Tiếp theo cần quan sát một cách cẩn thận đường viền để đánh giá sự toàn vẹn của màng nhĩ. Cuối cùng là quan sát đánh giá sự di động của màng nhĩ.
4.1.4. Kết luận việc thâm khám
Khi kết thúc thám khám, cần cho trẻ biết việc khám đã kết thúc, an ủi và khen ngợi sự họp tác của trẻ. Trên cơ sở những thông tin thu thập được, thảo luận với bố mẹ của trẻ về tình hình sức khoẻ bệnh tật của trẻ và phương pháp điều trị thích hợp. Nếu cần phải làm xét nghiệm hay kê đơn thuốc, phải giải thích, hướng dẫn cụ thể  cho bố mẹ về ý nghĩa của các xét nghiệm, ghi rõ cách thức sử dụng các loại thuốc. Đống thời kết hợp việc thăm khám để thực hiện việc hướng dẫn giáo dục về chăm sóc sức khoẻ cho trẻ một cách có hiệu quả. Giải thích cho bổ mẹ của trẻ biết khi nào cần phải đưa trẻ quay trở lại hoặc đưa ra lịch hẹn cho lần thăm khám sau.
 

Tải về tài liệu chính .....(xem tiếp)

  • Thăm khám trẻ dưới 5 tuổi
  • Xử trí trẻ ốm
  • space
    Tài liệu đào tạo liên tục
    1-hình 1
    hành vi sức khỏe

    Q-codes.....(xem tiếp)

    1-hình 1
    Mục tiêu nghiên cứu

    Võ Thành Liêm.....(xem tiếp)

    1-hình 1
    Một số nhóm bệnh khác

    ICPC.....(xem tiếp)

    Kiến thức nhanh
    Minh họa cách tiếp cận thông qua các tình huống lâm sàng
    Định nghĩa
    Tại sao chatbot AI ảo tưởng
    

    Phụ trách admin BS Trần Cao Thịnh Phước (phuoctct@pnt.edu.vn)

    Phụ trách chuyên môn TS Võ Thành Liêm (thanhliem.vo@gmail.com)

    space