Đối với tình huống bệnh nhân đến khám với bệnh cảnh đau vùng cổ không do chấn thương, nên hạn chế chỉ định rộng rãi cận lâm sàng hình ảnh học một cách không chọn lọc, trừ khi có những yếu tố nguy cơ nêu trong Bảng 4. Lý do là vì các bất thường trên X quang thường không liên quan đến tình trạng đau cấp hiện có của người bệnh.
Việc lựa chọn chỉ định khảo sát hình ảnh học cần nhận định dựa vào các thông tin lâm sàng ghi nhận được, chuyên biệt cho từng trường hợp. Nên bắt đầu bằng chụp X quang đơn thuần với các mặt cắt khác nhau cho phép xác định những bất thường giải phẫu.
Trong phần nhiều các trường hợp, ở bệnh nhân >30 tuổi, X quang sẽ ghi nhận những dấu chứng bất thường của thoái hóa cột sống cổ. Tuy nhiên sự hiện diện của các dấu chứng này lại tương quan yếu với tình trạng và mức độ của đau vùng cổ. Do vậy, việc chụp X quang đơn lẻ không thể chẩn đoán và nên được sử dụng như một công cụ hỗ trợ, cần được đánh giá kèm theo thông tin từ khai thác bệnh sử trong chẩn đoán đau cổ.
Cộng hưởng từ (MRI) và chụp cắt lớp vi tính (CT) được chỉ định khi nghi ngờ khối u ác tính, nhiễm trùng, chèn ép tủy sống và thoát vị đĩa đệm. CT cho hình ảnh bệnh lý xương tốt hơn, trong khi MRI có ưu thế đối với hình ảnh bất thường mô mềm và đặc biệt là tổn thương thần kinh, chẳng hạn như chèn ép dây thần kinh hoặc rễ thần kinh
Bảng 2.4: Các tình huống đau cổ cần chỉ định hình ảnh học
Tuổi> 50 kèm các triệu chứng mới
Triệu chứng toàn thân (sụt cân, chán ăn, sốt)
Nguy cơ nhiễm trùng (vd : suy giảm miễn dịch, dùng thuốc đường tĩnh mạch)
Đau cổ trung bình đến nặng kéo dài >6 tuần
Dấu hiệu thần kinh
Tiền căn mắc bệnh ác tính
|
|