Theo mô hình các hình thái sử dụng chất gây nghiện đã được phân tích ở phần trên, có thể thấy số người dùng thử thì nhiều nhưng số người tiến tới nghiện là tương đối ít. Mặc dù người nghiện ít, nhưng lại gây ra những tác động tiêu cực, tạo ra những gánh nặng quá lớn cho xã hội. Chính vì vậy, khi nói đến sử dụng chất gây nghiện, người ta thường chỉ tập trung vào những đối tượng nghiện và nói đến những vấn đề tiêu cực. Tương tự như vậy, khi xây dựng các chiến lược can thiệp, chúng ta cũng chỉ hướng tới nhóm người nghiện với ý chí quyết tâm đạt được mục tiêu CAI mà bỏ qua những nhóm người đang ở hình thái dùng thử, dùng có mục đích hoặc dùng nhiều. Điều đó đã bộc lộ khoảng trống trong quản lí cũng như dự phòng lạm dụng và nghiện chất. Không phải đến lúc nghiện thì người sử dụng ma túy mới gặp những nguy cơ, mới tạo những gánh nặng về y tế và xã hội, mà ngay từ lúc dùng thử, dùng có mục
đích, dùng nhiều họ đã có nguy cơ bị tử vong do sốc thuốc, rối loạn nhân cách và hành vi, lây nhiễm viêm gan B, C, HIV... và nhiều hậu quả xã hội khác.
Mặt khác, các chiến lược can thiệp với ý chí quyết tâm đạt được mục tiêu CAI đã tỏ ra thiếu thực tiễn, bởi vì nghiên cứu của thế giới cho thấy hầu hết người nghiện sau khi cai đều tái nghiện, nguyên nhân là do sự thức tỉnh của “hạch hạnh nhân sáng” trong não bộ người nghiện, gây ra sự thèm khát ma túy trở lại. Người nghiện ma túy sau một thời gian cai nghiện tập trung, do được điều trị cắt cơn, do trong cơ sở cai nghiện không có ma túy, do phải cải tạo lao động v.v…cho nên người nghiện đã tạm thời bỏ được ma túy. Nhưng khi ra khỏi cơ sở cai nghiện tập trung, người nghiện được tiếp cận với những người sử dụng ma túy, cơ hội “thức tỉnh” của “hạch hạnh nhân sáng” trở lại, người nghiện thèm khát và tái sử dụng ma túy.
Hình 2. Hạch hạnh nhân sáng ở người nghiện ma túy
Chính vì vậy, ở các nước trên thế giới, các trung tâm dự phòng và điều trị lạm dụng và nghiện chất hoạt động không phải vì mục tiêu CAI NGIỆN mà vì mục tiêu dự phòng và điều trị lâu dài cho bệnh nghiện.
|