Cuồng nhĩ

(Tham khảo chính: 7. Rối loạn trên thất (nhịp nhanh nhĩ, nhịp nhanh nhĩ đa ổ, ngoại tâm thu trên thất, nhịp nhanh nhĩ, nhịp nhanh nhĩ đa ổ))

Cuồng nhĩ

Cuồng nhĩ xảy ra khi có một vòng vào lại, tạo nên một vòng phát nhịp lặp đi lặp lại để khử cực nhĩ với tốc độ khoảng 250 đến 350 nhịp/phút (trong rung nhĩ là 400 đến 600 nhịp/phút), tạo ra hình ảnh sóng F răng cưa đặc trưng. Để phân biệt với rung nhĩ, chúng ta có thể lưu ý: rung nhĩ có tần nhĩ rât nhanh, thường không thể xác định được sóng P, hoặc chỉ nhìn thấy sóng f nhỏ lăn tăn.

Giống như rung nhĩ , trong cuồng nhĩ, không phải tất cả các sóng P đều có thể dẫn truyền qua nút nhĩ thất, và do đó tần số thất sẽ chậm hơn so với nhịp của nhĩ. Thông thường, tần số nhĩ khoảng 300 nhịp/phút trong khi nhịp của thất vào khoảng <150 (vì nếu nhanh thì sẽ có biểu hiệu rối loạn huyết động), và các sóng khử cực nhĩ sau đó sẽ bị chặn lại tại nút nhĩ thất, hoặc tại thất do hiện tượng trơ của cơ tim sau khử cực của nhịp khử cực trước đó. Khi đó, tần số thất (QRS) vào khoảng 150 nhịp/phút và đều

Trong thực hành lâm sàng, sóng F rõ nhanh, đều kèm phức bộ QRS nhanh hẹp với tần số thất vào khoảng <150 nhịp/phút là hình ảnh phổ biến trong cuồng nhĩ.

Các phức bộ QRS cách đều nhau thường thấy ở cuồng nhĩ cũng là đặc điểm giúp phân biệt với rung nhĩ, mặc dù trong cuồng nhĩ sóng P có thể thay đổi khi dẫn truyền. Trong trường hợp hình phía trên, ban đầu có thể có ba dạng sóng P đi trước trước một phức bộ QRS, sau đó thay đổi thành hai dạng sóng P và một phức bộ QRS, và tiếp tục ... Có thể xảy ra bất kỷ tỉ lệ phối hợp giữa sóng P và QRS. Điều này tạo ra một rối loạn nhịp không đều. Có 02 chẩn đoán phân biệt khác trong trường hợp rối loạn nhịp không đều: rung nhĩ và nhịp nhanh nhĩ đa ổ (MAT).

Khi tần số tim tăng cao (trên 150 nhịp/phút), nhịp sẽ không đều và thường khó phân biệt cuồng nhĩ và rung nhĩ với các rối loạn nhịp nhanh nhĩ hoặc nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất (AVNRT). Trong tình huống này, việc dùng adenosine để làm giảm tần số thất sẽ giúp các sóng cuồng nhĩ dễ thấy hơn và dễ chẩn đoán hơn.

Cuồng nhĩ được chia làm 2 loại: điển hình (loại I) hoặc không điển hình (loại II) tùy thuộc vị trí ổ phát nhịp. Ngoài ra, cuồng nhĩ được 'mô tả' theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ tùy theo hướng của vòng vào lại.

Cuồng nhĩ điển hình có vòng vào lại hướng theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, gần van ba lá và qua eo tĩnh mạch chủ dưới – van ba lá (CTI). Dẫn đến việc xuất hiện sóng cuồng nhĩ âm trong các chuyển đạo thành dưới (DIII, aVF).

Đôi khi, hướng của vòng vào lại có thể ngược lại, tạo nên cuồng nhĩ theo chiều kim đồng hồ ở cùng một vị trí giải phẫu, tạo nên sóng cuồng nhĩ dương ở những chuyển đạo thành dưới. Cuồng nhĩ không điển hình bắt nguồn từ nhĩ trái hay một số vùng ở nhĩ phải, chẳng hạn như sẹo phẫu thuật, và có rất nhiều hình thái sóng trên điện tâm đồ.

Nguyên nhân

Cuồng nhĩ thường được tìm thấy có liên hệ với các nguyên nhân tương tự như rung nhĩ và có thể tồn tại cả hai rối loạn trên cùng một bệnh nhân. [16]

Đặc biệt, cuồng nhĩ không điển hình thường thấy ở những bệnh nhân bị cắt bỏ ống thông trong quá khứ để điều trị rung nhĩ, hoặc những người đã phẫu thuật tim, hoặc những người mắc bệnh tim bẩm sinh.

Cuồng nhĩ khác với rung nhĩ. Trong khi rung nhĩ là một rối loạn nhịp gây ra bởi nhịp đập ngoài tâm nhĩ từ các tĩnh mạch phổi, cuồng nhĩ là một rối loạn nhịp được tạo thành từ mạng mạch lớn xung quanh tâm nhĩ. [16]

Ý nghĩa lâm sàng

Bệnh nhân bị rung nhĩ thường xuất hiện đánh trống ngực, mệt mỏi, khó thở hoặc đau ngực. Vì tần số của thất trong cuồng nhĩ thường nhanh hơn trong rung nhĩ, bệnh nhân thường có nhiều triệu chứng hơn. Ngoài ra, có thể xuất hiện với các triệu chứng của giảm khả năng gắng sức khi vận động hoặc suy tim. Cũng có thể xuất hiện sau đột quỵ do huyết khối, như trong rung nhĩ. [16]

Hầu hết các bệnh nhân bị cuồng nhĩ đều ổn định về huyết động, nhưng những người bị suy yếu chức năng tim có thể bị suy giảm huyết động, ngay cả với tần số thất tương đối thấp. [16] Cuồng nhĩ không được điều trị cuối cùng có thể dẫn đến bệnh cơ tim do nhịp tim nhanh. [16] Các lựa chọn điều trị và cân nhắc tương tự như rung tâm nhĩ.

Nếu cuồng nhĩ có liên quan đến sự suy tim cấp với rối loạn huyết động (ví dụ khi có sốc, ngất, hoặc bằng chứng thiếu máu cơ tim hoặc suy tim), có chỉ định điều trị bằng máy phá rung ngay lập tức. [18]

Đối với những bệnh nhân huyết động ổn định, việc điều trị điều trị trong giai đoạn cấp có thể lựa chọn bằng nhiều phương pháp khác nhau: bằng máy phá rung hoặc thuốc chống loạn nhịp, hoặc các thuốc chặn nút AV (như một phần của chiến lược kiểm soát nhịp). [16]

Đối với hầu hết bệnh nhân, mục đích điều trị là phục hồi nhịp xoang. Điều này là do điều trị bằng thuốc thường không hiệu quả trong việc kiểm soát nhịp thất. Cuồng nhĩ thường dễ dàng được điều trị bằng máy phá rung hay thuốc, với việc duy trì nhịp xoang được hỗ trợ bằng cách sử dụng thuốc chống loạn nhịp.

Ở những bệnh nhân bị cuồng nhĩ tái phát không đáp ứng điều trị nội khoa thì việc cắt bỏ ống thông thường thành công. Để cắt bỏ cuồng nhĩ điển hình, có thể đặt một thiết bị để đốt bằng sóng cao tần trong isthmus cavotricuspid (ở phần dưới của nhĩ phải, giữa tĩnh mạch chủ dưới và van ba lá) để chấm dứt cuồng nhĩ và / hoặc ngăn ngừa các đợt trong tương lai. Các hướng dẫn về điều trị dự phòng đột quỵ, ví dụ trước khi điều trị tim mạch và điều trị dự phòng lâu dài trong tình trạng cuồng nhĩ kéo dài, cũng giống như trong rung nhĩ. [19] [20]

Ví dụ:

Tài liệu tham khảo:
1. Chou’s Electrocardiography in Clinical Practice: Adult and Pediatric, 6e
2. Surawicz B, et al. AHA/ACCF/HRS Recommendations for the Standardization and Interpretation of the Electrocardiogram. Circulation. 2009; doi:10.1161/CIRCULATIONAHA.108.191095.